Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

26/12/201017:32(Xem: 8773)
2- Tính Tự Nhiên Căn Bản Của Tâm Thức

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÍNH BẢN NHIÊN CỦA TÂM THỨC

 

Vìthế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo,và có thể biểu hiện ngay cả cho một chúng sinh, hàng trăm, hàng nghìn, và nhiềunữa mà hành giả có thể biểu hiện, trong những thân tướng khác nhau, khi có nhucầu cần đến, để hóa độ, để hướng dẫn từ hạnh phúc đến hạnh phúc. Giống như thế, rồi lần lần đưa mọi người đếnchấm dứt sự chết, tái sinh, và toàn bộ những rắc rối và đưa họ đến tâm thức tốithượng, tâm thức hiểu biết hoàn toàn.

Thếcho nên những lợi ích rộng lớn vô cùng như vậy mà chúng ta có thể cung ứng chomỗi chúng sinh, với sự giải thoát hoàn toàn, với tuệ trí, hiểu biết trọn vẹn,mà không có một chút si mê, chướng ngại nào cả, và năng lực toàn hảo để khai mởbất cứ sự hướng dẫn, bất cứ phương pháp nào thích ứng với họ để đem họ vàotrong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Rồi thì lòng bi mẫn vô hạn cho người khác,lòng bi mẫn không thể lường được cho mỗi chúng sinh, lòng bi mẫn nguyện ước mỗichúng sinh được giải thoát khỏi những rắc rối và nguyên nhân khổ đau và tự mìnhđể làm việc, để tự mình lãnh lấy trách nhiệm ấy, vì thể có lòng từ bi vô hạn,vào lúc ấy lòng từ bi, tâm thức được rèn luyện trong từ bi được hoàn thành,không có gì để phát triển thêm nữa, tuệ trí không có gì để phát triển nữa,không có năng lực nào để phát triển nữa, không có từ bi nào để phát triển nữa. Vì thế, hành giả có thể hóa độ chúng sinh, hướngdẫn mỗi chúng sinh mà không có bất cứ sai sót nhỏ nhiệm nào.

Thếnên điều này là, tất cả chúng ta bây giờ có năng lực ấy, tất cả năng lực để cóthể đem tất cả mọi người đi đến chấm dứt tất cả mọi vấn đề rắc rối cũng nhưnguyên nhân của vấn đề, để đem họ đến hạnh phúc không thể so lường được, thể trạngcủa tâm thức hiểu biết trọn vẹn, tâm thức hiện tại của chúng ta có tất cả nhữngkhả năng ấy, tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ toàn vẹn. Vì thế, bây giờ, bây giờ thế nào, nói mộtcách chính xác hơn, điều gì thế? Khảnăng hay tính bản nhiên giác ngộ trọn vẹn của tâm thức mà chúng ta đang cótrong sự tương tục tinh thần hiện tại, thế thì cái gì đấy? Bây giờ ở đây chúng ta đi đến tính bản nhiêntối thượng của tâm thức . Điều rõ ràng củatâm thức là có thể làm tất cả những điều này, tức là tâm thức có tất cả nhữngnăng lực này, khả năng này, khả năng không thể ngờ được, khả năng vô hạn, niềmhy vọng hay khả năng mà chúng ta có hay tâm thức hiện tại chúng ta phải cống hiếnlợi lạc rộng lớn đến mọi chúng sinh.

Vìthế, đấy là tâm thức này, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng và nhậnthức đốitượng, cũng như tâm thức này. Tâm thứccó toàn bộ năng lực này. Do vậy, bây giờ,tính bản nhiên của tâm thức là gì, đấy là tịnh quang, ánh sáng tinh khiết. Vậy thì tịnh quang là gì? Thế nên, chúng ta suy nghĩ, trước khichúngta đặt nhãn hiệu tâm thức, trước khi chúng ta mệnh danh “tâm thức”, có một lýdo trước khi đấy chúng ta nghĩ. Trướckhi chúng ta đặt cho nhãn hiệu có một lý do trước đấy. Lý do mà chúng ta suy nghĩ, là điều mà làmcho chúng ta quyết định nhãn hiệu đặc thù này, tâm thức, lý do mà làm cho chúngta quyết định nhãn hiệu đặc thù này của tâm thức, lý do ấy là căn bản, lý dotrước khi chúng ta, làm chúng ta quyết định là cái nhãn hiệu, điều được quycho, tâm thức là hiện tượng được quy cho và lý do mà chúng ta nghĩ trướckhichúng ta mệnh danh tâm thức, nó là căn bản được mệnh danh tâm thức, vì thế nólà hai vấn đề khác nhau. Vì thế, tâm thứclà điều không hình thể, không màu sắc, không hình dạng, và là điều mà tính bảnnhiên là trong sáng, nhận thức đối tượng, tủy thuộc trên điều này. Thế thì tâm thức của một người, tư tưởng,nhãn hiệu, chỉ đơn thuần quy cho tâm thức. Do bởi lý do này, hiện tượng đặc thù này, là điều khác biệt với thân thể,mà thể hiện chức năng khác với thân thể, bản chất khác với thân thể, chức năngkhác với thân thể, rồi thì do bởi điều này người ta làm nên nhãn hiệu “tâm thức”. Do thế, tâm thức là một khái niệm, một nhậnthức, hay một ý tưởng.

Tuythế, có một lý do, trước khi chúng ta gọi tâm thức, có một lý do trước điềunày. Rồi thì do sự lệ thuộc trên một lýdo nào đấy sau đó chúng ta mệnh danh tâm thức. Nhưng tâm thức chỉ đơn thuần được mệnh danh, điều gọi là tâm thức chỉđơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức, bởi tư tưởng. Do thế, không có tâm thức, không có tâm thứcthật sự tồn tại từ bản chất của nó. Không có tâm thức độc lập hay không có tâmthức tồn tại một cách cố hữu (tâm thức không có tự tính), [không có] một tâm thứctrong ý nghĩa tồn tại một cách cố hữu. Vì thế tâm thức như thế, cách hiện hữu của tâm thức với chúng ta và cáchmà chúng ta tin tưởng như thế, một tâm thức độc lập hay tồn tại một cách cố hữu,là trống rỗng, là hoàn toàn trống rỗng, không tồn tại, hoàn toàn rỗng khôngngay tại đấy.

Nhưvậy tâm thức không hiện hữu nhưng như vậy điều gì hiện hữu? Tâm thức mà xuất hiện tồn tại một cách cố hữulà không tồn tại, hay trống rỗng ngay đấy, nhưng điều hiện hữu là tâm thức làđiều chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi chính tư tưởng của con người, phụ thuộctrên những lý do này, tùy thuộc trên căn bản này, hiện tượng đặc thù này mà nólà vô hình tướng, mà tính bản nhiên của nó là trong sáng, nhận thức đối tượng. Do thế, tâm thức này, nó là sự tồn tại biểuhiện chỉ đơn thuần được mệnh danh bởi tâm thức nhưng nó trống rỗng sự tồn tại từbản chất của nó. Vì vậy, đấy chính làtính bản nhiên của tâm thức, đây là tính bản nhiên tối hậu của tâm thức, và đâylà ý nghĩa của ánh sáng tinh khiết hay tịnh quang. Đây chính là tính bản nhiên của tâm thức, đâylà tính bản nhiên căn bản của tâm thức.

Vậythì bây giờ, đây là điều gì, đây là khả năng, đây là tính bản nhiên, đây là gì,đây là khả năng, đây là tính bản nhiên của sự toàn giác, mà tôi đã giải thích vừarồi, đấy là tâm thức giác ngộ trọn vẹn, tuệ trí tròn đầy, tâm thức hiểu biết trọnvẹn, năng lực toàn hảo, lòng bi mẫn vô hạn đối với tất cả chúng sinh. Vì thế, những ai có rắc rối, những ai tâm thứcbị chướng ngại, có lỗi lầm, cũng có lòng bi mẫn đến tất cả chúng sinh. Do vậy, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức,tịnh quang, là tính bản nhiên của sự giác ngộ trọn vẹn.

Thếnên, trong tâm thức chúng ta có tính bản nhiên giác ngộ tròn đầy, bởi vì hành độngcủa sự toàn giác đang chiếu soi, đang thâm nhập trong sự tương tục tinh thần củachúng ta và cách ấy, nó làm cho chúng ta phát triển tâm thức của chúng ta haynó làm cho chúng ta tạo nên nguyên nhân của hạnh phúc. Cách này, tâm thức chúng ta trở thành thái độtích cực và cách này có thể sản sinh hạnh phúc. Rồi thì, trong tính bản nhiên tối thượng, trong tính không, trong tính bảnnhiên tối hậu, không có điều khác biệt giữa tính bản nhiên của tâm thức chúngta và tính bản nhiên của sự toàn giác. Do vậy, điều này có liên hệ một cách chính đáng, bất cứ danh xưng khácbiệt mà con người sử dụng, bất cứ tín ngưỡng mà con người theo đuổi, con ngườicó thể liên hệ đến điều này, bất cứ cách nào, trên thế gian, người ta hầu hếttin tưởng rằng có kẻ nào đấy tối thượng, có kẻ nào đấy có năng lực tối cao, cónăng lực tuyệt hảo nhất, kẻ ban bố sự hướng dẫn, có ai đấy, có một chúng sinh tốithượng, có kẻ nào đấy hiểu biết trọn vẹn nhất, có kẻ nào đấy là tối thượng.

Vìvậy, tùy thuộc trên tín ngưỡng khác biệt, do thế có người gọi là Đức Phật, cóngười gọi là Thượng Đế, do vậy một cách thông thường có một niềm tin rằng cóchúng sinh tối cao. Vì thế, mặc dù nókhông rõ ràng, mặc dù không có sự hiểu biết rõ ràng điều gì đấy một cách chínhxác, tất cả những phẩm chất, tuy thế có niểm tin một cách phổ biến, hầu hết mọingười có một niềm tin rằng có ai đấy là tối thượng, do thế điều ấy hiện hữu phùhợp đến niềm tin của con người rồi đưa ra những nhãn hiệu khác nhau. Một số dùng chữ Thượng Đế, Thiên Chúa, một sốgọi là Đức Phật, Đấng Toàn Giác, và v.v… Thế nên điều này, điều này tôi đang diễn tả bây giờ, điều này, một sốngười, ngay cả Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo, đây là vấn đề liên hệ giốngnhư điều này. Rằng Thượng Đế hay Đức Phậthay Tính Toàn Giác đang hoạt động trong tâm thức quý vị. Vì thế tùy theo tín ngưỡng của con người, cóthể liên hệ đến [như thế nào đấy trong danh xưng].

Tuynhiên, trong tính không, trong tính bản nhiên tối hậu, không có gì khác biệt giữatính bản nhiên tối hậu của tâm thức hiện tại của con người, mặc dù tâm thức hiệntại này bị chướng ngại, không thanh tịnh, bị chướng ngại, nhưng trong tính bảnnhiên tối hậu, trong tính không, tính bản nhiên tối hậu của tâm thức conngười,tâm thức mà bây giờ chướng ngại, điều với biểu hiện thời gian, và tính bảnnhiên tối hậu của tâm toàn giác hay hay bất cứ điều gì mà con người gọi,tính bảnnhiên tối hậu của tâm thức thánh thiện của Thượng Đế. Không thể tách rời, không có sự khác biệt, đến tận cùng của tính bản nhiên nềntảng không có sự khác biệt giữa chúng, [giữa] tính bản nhiên thiết yếu của tâmthức hiện tại của con người vốn dĩ mê muội (vọng tâm) và điều hoàn toàn thanh tịnh(chân tâm), cả hai thứ không có gì khác biệt. Có sự khác biệt căn bản, căn bản của tính bản nhiên nền tảng, điều đượchổ trợ và điều hổ trợ. Tính bản nhiên nềntảng phụ thuộc trên tâm thức, nó tồn tại bởi sự lệ thuộc trên tâm thức. Tâm thức là hổ trợ hay lệ thuộc. Vì thế, căn bản, sự hổ trợ, tâm thức,có nhữngsự khác biệt, điều này là bất tịnh và điều kia là hoàn toàn thanh tịnh,nhưng ngoại trừ đấy là sự khác biệtnhưng trong tính bản nhiên thiết yếu, không có sự khác biệt giữa hai thứnày. Vì thế đấy là một, [nên] tâm thứcchúng ta có tất cả những khả năng , khả năng hay tính bản nhiên của một chúngsinh giác ngộ trọn vẹn.

Thứba là, trong tính bản nhiên của tâm thứcđấy là khả năng mà con người có thể chuyển hóa thân thể trở thành một thân thểhoàn toàn thanh tịnh thánh thiện; hình tướng của thân thể hoàn toàn thánh thiệnthanh tịnh, những khía cạnh khác biệt ấy, [là để] hướng dẫn những chúng sinhkhác, để làm lợi ích cho chúng sinh, để đưa họ đến, để khai mở, để hướng dẫnvào con đường [giải thoát giác ngộ], để đưa họ từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnhphúc không thể so sánh , sự giác ngộ trọn vẹn. Do thế, vì ba lý do này, nên trong tâm thức chúng ta có khả năng haytính bản nhiên của một chúng sinh giác ngộ tròn đủ.

Vìthế bây giờ, tính bản nhiên trong sáng của tâm thức, điều này thanh tịnh, khôngbị nhiễm ô bởi si mê, tâm thức không thỏa mãn dính mắc, sân hận, kiêu căng,nghi ngờ, tà kiến sai lầm. Tính bảnnhiên của tâm thức không là một với vị kỷ, tự ngã; tính bản nhiên của tâm thứckhông là một với tư tưởng tự kỷ, nó không là một với tự ngã. Điều này, do bởi thế, nó là là thanh tịnh,tính bản nhiên của tâm thức là thanh tịnh, do bởi ý nghĩa đấy, vì nó không là mộtvới những sai lầm của tâm thức, nó không là một với tội lỗi, không là một vớinhững lỗi lầm.

Vìthế, những lỗi lầm đó là tạm thời, giống như thời tiết, bầu trời không là một vớisương mù, những đám mây đó, nó chỉ tạm thời bị che phủ bởi sương mù vàmây. Bởi vì bầu trời không là một vớinhững đám mây, vì qua những nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên) nào đấy, nhữngđám mây và sương mù đó đến nhưng những nhân duyên khác chúng sẽ được dọnđi. Bầu trời sẽ trở nên rất trong sáng,có thể cho ánh sáng mặt trời chiếu rọi xuống mặt đất, rồi thì có thể cho conngười nhiều sự sướng vui, nhiều niềm hạnh phúc giải thoát nhiều rắc rối, chứkhông như lúc không có ánh sáng; vì thế có thể ban cho nhiều niềm thú vị, đểgieo trồng cây cối, mùa màng, và v.v… Cũng giống như vậy [những lỗi lầm hay sựâm u của bầu trời] là tạm thời, như thời tiết xấu, [bầu trời] đầy sương mù và lạnhvà những cơn mưa đá và v.v…, điều ấy không phải mãi mãi, nó là tạm thời.

Tươngtự như thế, tấm gương bị bao phủ bởi bụi mờ, nó không phải mãi mãi, nó là tạmthời. Vì thế qua những nhân duyên khác,nó bị lu mờ bởi bụi bám nhưng qua những nhân duyên khác nó có thể được lau sạch. Cũng giống như vậy, tương tự, tâm thức khôngkiên nhẫn, tâm thức vị kỷ, v.v…, chính sựkhông hài lòng, quá mạnh tham dục, tất cả những thứ này, những lỗi lầm mà chúngta đã làm, tất cả những thứ này không phải mãi mãi như vậy, chúng là tạm thời. Do thế qua những nhân duyên khác, chúng vì thếsẽ được dọn dẹp hay chúng sẽ tẩy trừ. Thếđấy, tâm thức này có thể được giải thoát khỏi tất cả những thứ ấy, rằng tâm thứcnày sẽ trở nên thanh tịnh, được tự do khỏi những thứ này, do lệ thuộc trên nhữngnhân duyên khác.

Thếnên, giống như vậy, thí dụ, sửa có khả năng sản xuất bơ, nhưng nó tùy thuộctrên những điều kiện khác, nó tùy thuộc trên điều kiện cần có để làm cho sửa sảnxuất ra bơ. Ở Tây Tạng, người ta đặt sửatrong trong thùng làm bơ, chiếc thùng này làm bằng gỗ hay tre hay bất cứ thứgì, rồi thì chiếc thùng, rồi thì bằng việc lệ thuộc trên điều kiện ấy, rồi thìbằng việc gặp gở điều kiện ấy mới sản xuất ra bơ. Tương tự thế, chiếc chiêng, chiếc chiêng cókhả năng tạo ra âm thinh, nhưng cho đến khi nó gặp điều kiện, có người thỉnhchiếc chiêng một cái bằng cái dùi, đánh vào chiếc chiêng, và cho đến khi điềukiện ấy xãy ra, âm thinh sẽ không phát ra, tiếng chiêng không phát ra. Do thế, khả năng ở đấy, đấy là yêu cầu gặp gởđiều kiện, đùi chiêng, đánh, chạm vào chiếc chiêng. Thế nên giống như vậy, tâm thức này có tất cảnhững khả năng để đạt đến bất cứ hạnh phúc nào, đạt đến bất cứ cấp độ nào của hạnhphúc, để đem đến lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh khác…

Tuệ Uyểnchuyển ngữ - 10/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1589


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15991)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3689)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6053)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6245)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3965)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8298)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5576)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15553)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10778)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7881)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]