Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1- Tâm Là Gì?

26/12/201017:30(Xem: 7761)
1- Tâm Là Gì?

SỐNG AN VUI, CHẾT AN LÀNH
Nguyên tác: Living Well, Dying Well
Tác giả: Kyabje Lama Zopa Rinpoche
tại Theosophical Society, Brisbane, Australia
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển-07/10/2010

TÂM LÀ GÌ?

 

LamaZopa Rinpoche đã thuyết giảng đề tài này tại Brisbane, Úc Đại Lợi vào năm 1991.

Trongbài thuyết giảng này, Rinpoche đã nói về mục tiêu của đời sống và phát triểnthái độ đúng đắn đối với sự chết.

Cầunguyện mở đầu!

Tôirất vui mừng được gặp gởi tất cả quý vị và như chúng ta chịu trách nhiệm đểmang hạnh phúc đến mọi người khác, như mỗi chúng ta chịu trách nhiệm để cống hiếnhạnh phúc, nguyên nhân hạnh phúc cho ngườikhác, hạnh phúc của người khác tùy thuộc trên chúng ta, hạnh phúc của chúng tatùy thuộc trên những người khác, vì vậy đấy là những gì tôi đang nói đến.

Vậythì, chủ đề chính mà chúng ta sẽ quán chiếu hay những gì tôi cố gắng để thựchành một ít và đôi khi tôi không lười biếng, khi tôi có thể nhớ, tôi chia sẻ sựthấu hiểu của tôi hay căn bản mà tôi đã học một ít, mà đấy chỉ là một ít từgiáo huấn của Đấng Toàn Giác, những lời dạy của Đức Phật. Do vậy, nếu có điều gì thực tiển, nếu có điềugì lợi ích mà quý vị tìm thấy qua sự phân tích sau đó hãy áp dụng đến đời sốngcủa quý vị.

Dovậy, trước hết tôi nghĩ có lẽ nên đề cập một ít về vấn đề tâm là gì. Không có tâm thức, nếu thân thể không có tâmthức, thế thì không có cách nào mà nó trãi nghiệm hạnh phúc. Vì thế, cóthân thể và tâm thức. Thân thể có thân thô, thân vi tế, và thân cựckỳ vi tế, như thế là có ba thân. Thânthô phù thì có thể dễ dàng để thấu hiểu và rồi thân vi tế, căn bản của chất lỏng,căn bản của thân thể. Sau đó, có thân cựckỳ vi tế, mà đấy là cổ xe của tâm thức cực kỳ vi tế. Do vậy, điều ấy làbất biến, thân thể cực kỳvi tế bất biến bên trong thân thể tại quả tim, bằng kích thước của hai lồng ngực,trong trung tâm. Rồi thì có, xa như tâmthức , có tâm thức thô, tâm thức vi tế, và tâm thức cực kỳ vi tế, thế làcũngcó ba, tối đa là tâm thức có ba loại như thế này. Thế thì tâm thức bất biến cực kỳ vi tế ở nơinào? Đấy cũng là tại quả tim, bằng kíchthước của hai lồng ngực, trong trung tâm, tại quả tim.

Vàbây giờ, tâm là gì? Hiện tượng, mà nókhông hình tướng, không màu sắc, không hình thể, không vật chất, mà tự nhiên làtrong sáng, nhận thức những đối tượng, như tấm gương có thể phản chiếu, tấmgương có thể cho sự phản chiếu trong sáng mọi thứ, của bất cứ thứ gì ở trướcnó. Vậy thì giống như thế, tâm thức cóthể làm cho đối tượng sáng sủa, đến tâm thức ấy, đối tượng có thể được xuất hiệnrõ ràng, bất cứ đối tượng nào, hiện tượng, đến với tâm thức, đối tượng được xuấthiện một cách rõ ràng. Vì vậy, sự nhận thức đối tượng là như thế này. Và đây là sự quy ước thông thường, có hai đặctính tự nhiên của tâm thức, một là đặc tính quy ước (tục đế) và một là đặc tínhbản thể (chân đế). Do vậy sự diễn tả nàylà đặc tính quy ước.

Bâygiờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhân và điều kiện (nhânduyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởitâm thức hôm qua. Tâm thức hôm qua tồn tạido bởi tâm thức ngày trước nữa, giống như thế, nó đi ngược lại. Tâm thức hôm nay được làm ra bởi tâm thức hômqua và tâm thức hôm nay sẽ làm nên kết quả của tâm thức ngày mai. Giốngnhư thế, tâm thức của giây phút này đượctạo nên bởi tâm thức của giây phút trước và tâm thức hiện tại làm nên trể hơn, tâm thức của giây phút tới. Vì thế đấy là duyên khởi, tâm thứclà duyênsinh mỗi lần như thế.

Vìvậy, bất cứ tư tưởng nào cũng có sự lệ thuộc trên đối tượng, vì bởi có sự hiệnhữu, đối tượng sau đó có một tư tưởng của đối tượng ấy. Khi đối tượng được nhận thức sau đó có một tưtưởng, vì thế tư tưởng là một sự duyên sinh lệ thuộc trên nguyên nhân và điềukiện (nhân duyên). Do thế, đấy là việcchúng ta có thể nhớ nghĩ như thế nào, bởi vì có một sự tương tục của tư tưởng từngày hôm qua, hôm nay, vì vậy chúng ta có thể nhớ lại những gì chúng đã làm hômqua, những gì chúng ta đã thấy hôm qua và những gì chúng ta đã làm năm trước,và v.v… Do vậy, tương tự thế, qua tiếntrình, trước tiên cả, chúng ta phải kiểm soát, chúng ta phải phân tích, chúngta phải học hỏi, chúng ta phải khám phá qua những kinh nghiệm của chúng ta, đấylà khi tâm ý xãy ra trong sự thụ tinh trứng, chúng ta phải phân tích có phải nóđến từ [nơi nào], chúng ta phải nghiên cứu, chúng ta phải phân tích có phải tâmý đến từ sự tương tục trước đấy của tâm ý hay không . Vì thế chúng ta phải nghiên cứu, chúng ta phảiphân tích, chúng ta phải khám phá với kinh nghiệm của chính chúng ta, bằng việcsử dụng tuệ trí của chính chúng ta, bằng sự phát triển tuệ trí của chính chúngta, rồi thì chúng ta phải khám phá qua kinh nghiệm của chính chúng ta có phảicó một tâm ý khác mà nó là sự tương tục của tâm ý ấy, tâm ý đã bắt đầu trong sựthụ thai, trong tử cung của bà mẹ. Nó phảiđược chứng tỏ với tuệ trí của chính chúng ta. Vì thế dù cách nào cũng qua sự phân tích.

Tuynhiên, qua thiền quán, nhiều người, nhiều người phương Tây thiền quán, nhiềusinh viên thiền quán cũng như những ai có tâm thức thật trong sáng, những ai cóít chướng ngại, những ai có một tâm thức trong sáng hơn thế thì họ có thể nhớ lạikhi nào họ ra khỏi tử cung của bà mẹ, một số có thể nhớ lại lúc họ đang ra khỏitử cung của bà mẹ, họ có thể nhớ lại những lúc ấy. Một số có thể nhớ lại. Vì thế, qua thiền quán, điều ấy không thể khôngcó thiền quán. Qua thiền quán họ có thểnhớ lại đời sống trước đời sống này, khi họ phân tích, khi họ quán chiếu lại,qua thiền quán khi họ trở lại tử cung rồi thì, trở lại chính ngay thời điểm tâmý bắt đầu, tâm ý đã phối hợp với sự thụ tinh,chính thời điểm đầu tiên đã phối hợpvới sự thụ thai. Vì thế, trước giây phútấy khi họ phân tích qua thiền quán, một số người có những hình ảnh rất rõ ràngtrong những ký ức của những đời sống quá khứ. Một số đã sống ở Tây Tạng có thể nhớ lại ngay cả nhà bếp, nhà bếp Tây Tạng,có thể nhớ lại nhiều thứ ngay cả bên trong phòng.

Tuynhiên như đề cập qua thôi miên, một cảm giác rất mạnh mẽ của ngày hôm qua cũngcó thể được nhớ lại. Nhưng rồi thì quaphát triển tâm thức trong thiền quán, khi chúng ta tiếp cận tâm thức tại một cấpđộ nào đó của con đường [tu tập], sau khi đạt đến sự thiền quán gọi là tịchtĩnh bất biến hay nhất tâm bất loạn, mà chúng ta có thể tập trung [đại định]hàng năm, hàng vô lượng kiếp, tùy theo hành giả mong ước, hành giả có thể tậptrung trên một đối tượng mà không có một chướng ngại nào, không có sự xao lãngnào, không có gì phá vở sự tập trung [đại định], mà bất cứ nơi đâu hành giả tậptrung tâm thức mình, bất cứ nơi nào hành giả đặt tâm thức của chính mình có thểtrụ trên đối tượng ấy như một ngọn núi, giống như đặt một ngọn núi ở đấy, và vìthế có thể trụ tâm trên đối tượng ấy. Điềuấy được phối hợp với một sự tập trung nhất điểm này phối hợp với trạng thái đạiđịnh, thân thể và tâm thức được tịnh hóa cực kỳ vi tế, trạng thái đại định, đạilạc hay niềm hạnh phúc chân thật, khi được phối hợp với điều ấy, có thể làm chosự tập trung đại định này [hiện hữu] với kinh nghiệm như thế.

Tuynhiên, sau khi đạt đến trình độ nhất tâm bất loạn thì chúng ta có thể có nhữngnăng lực có thể thấy được quá khứ và tương lai, vì thế trong những hành giả nhưthế có thể nhớ lại những thời gian như thế, rồi thì cao hơn, khi hành giả thựcsự tác chứng những lộ trình cao hơn và cao hơn thế thì họ có thể thấy xa hơn vềquá khứ, xa hơn về tương lai. Rồi thìcũng bằng sự thực hành mật tông tantra, những chân ngôn bí mật, có một phươngpháp thực hành gọi là Sáu Du Già của Naropa. Đấy là một phương pháp để thực sự chấm dứt tâm thức thô, tư tưởng thô vàthực sự tác chứng tâm thức cực kỳ vi tế. Rồi thì có thể sử dụng tâm thức cực kỳ vi tế này để thiền quán, để thânchứng con đường tu tập để có thể thực thi những lợi ích rộng lớn cho nhữngchúng sinh khác, cho những người khác. Vì thế, hành giả, thiền giả, người thực chứng điều này, tâm thức vi tế;đặc biệt sau khi đạt đến sự thực chứng này, có thể có những năng lực, khả năngtâm linh này. Có thể nhớ lại hàng nghìnđời sống trước đây, hàng nghìn năm trướcđây, nơi mà họ đã hiện diện trên thế giới này, xứ sở nào. Giống như thế, quý vị, tự mình là đệ tử của mộttrong những thánh giả hay đại sĩ nào đã xãy ra trên trái đất này hàng nghìn nămtrước. Vì thế, hành giả ấy có thể nhớ lạinhững đại hành giả như Milarepa, những người thành tựu toàn giác trong một đời,trong một vài năm, trong một thời gian ngắn của thời đại mạt pháp.

Mộtsố hành giả thực sự thực chứng điều này, cũng có những hành giả thực sự tác chứngnhững điều này qua sự thực hành mật tông tantra, con đường tu tập, sau đó hànhgiả ấy có thể nhớ lại rằng con người ấy đã từng hiện diện trong thời gian ấytrong một nơi như thế như thế. Những ngườiấy có thể thấy tương lai và quá khứ. Vàđiều này là chỉ nói về tâm thức, những khả năng của tâm thức có thể đạt đến sựphát triển cao hơn và cao hơn, sau đó có thể thấy nhiều hiện tượng khác, là nhữngthứ không thể thấy được trước khi tâm thức phát triển [đến trình độ này]. Khi tâm thức phát triển cao siêu hơn, thâmdiệu hơn thì có thể thấy nhiều hơn nữa về quá khứ và trong tương lai, vô số nhữnghiện tượng khác nữa, mà tâm thức phàm phu hiện tại không thể thấy được.

Tươngtự thế, trước một người đi đến một trường đại học, người ấy không thể hiểu biếttất cả những môn học, những hiện tượng, nhưng bằng việc đi đến trường đại học,nghiên cứu học hỏi sau đó người ấy mới có thể hiểu biết, thấy biết tất cả nhữngmôn học khác, tất cả những hiện tượng khác. Giống như vậy, qua thiền quán , giống như điều này dần dần sau đó hànhgiả phát triển hoàn toàn tâm thức trong tuệ trí, trong sự thông hiểu rồi thìhành giả có thể thấy, có thể thấy một cách trực tiếp tất cả những sự hiện hữu,tất cả những hiện tượng, mỗi sự tồn tại đơn lẻ, trong quá khứ, hiện tại vàtương lai. Mọi thứ đã tồn tại trong quákhứ và sẽ xãy ra trong tương lai cùng liên hệ đến tất cả những hiện tượng đanghiện diện bây giờ.

Tuythế, vào thời điểm khi tâm thức đã hoàn toàn phát triển, sự thông hiểu hoàntoàn phát triển, vào thời điểm ấy tâm thức hành giả có thể thấy tâm tưởng của mọingười, mọi chúng sinh, trong mỗi giây; hành giả có thể thấy một cách trực tiếp, có thể thấy mộtcách toàn hảo, qua thời gian ấy, sẽkhông có sự cản trở, tâm thức hiện hữu ở khắp mọi nơi. Tại thời điểm tâm thức chúng ta bao trùm chỉthân thể này, thì chúng ta không thể bao trùm tâm thức chúng ta khác hơn thânthể này, tâm thức chúng ta không thể bao trùm tất cả những đối tượng. Khác hơn thân thể này, tâm thức chúng takhông thể bao hàm. Vì thế có nhiều giớihạn, khi hành giả ở đây, trong khi chúng ta ở đây, tâm thức chúng ta không thểđồng thời ở tại nhà, không thể ở tại bờ biển, hay không thể ở những xứ sở khácnơi chúng ta ao ước. Tâm thức chúng takhông thể ở Hy Lạp cùng một lúc, trong khi chúng ta ở đây Úc Đại Lợi cùng mộtlúc, Hoa Kỳ hay Ba Li của Indonesia, bãi biển Ba Li. Tâm thức chúng ta không thể ở mọi nơi màchúng ta mong ước. Vì thế nhằm để ở đấy,thân thể phải đi đến đấy, thân thể phải tiếp nhận rắc rối, thân thể phải đi đếnđấy.

Cónhiều giới hạn trong năng lực, có nhiều cản trở, có nhiều giới hạn trong khảnăng. Vì thể khi thành công trên con đườngtu tập, không có giới hạn, không có chướng ngại. Vào lúc ấy không có thân thô, không có tâmthô, chỉ có thân vi tế và tâm vi tế. Dovậy, không có cản trở, không có chướng ngại, nên tâm thức có thể thâm nhập khắpmọi thứ. Tâm thức có thể thấy mọi thứ vàtâm thức có thể thâm nhập mọi hiện tượng. Như tâm thức của thân thể chúng ta có thể thâm nhập ngay hiện tại thânthể chúng ta, và vì thế, tâm thức có thể thấy mọi thứ và nó thâm nhập mọi thứngay lúc ấy. Do thế, vào thời điểm ấysau khi chúng ta có thể tất cả chúng sinh, tất cả sinh vật, những đặc tính củachúng, những trình độ khác nhau của tâm thức, mọi thứ. Vì thế sau đó hành giả có thể thấy mỗi mộtphương pháp để đưa họ, để giải thoát họ khỏi rắc rối, làm cho họ và để đưa họvào trong hạnh phúc, từ hạnh phúc đến hạnh phúc, đến hạnh phúc tối hậu, hạnhphúc tối thượng không gì có thể so sánh, thể trạng của tâm toàn giác, tâm thứchiểu biết một cách trọn vẹn. Hành giả cóthể đưa chúng sinh như thế này từ hạnh phúc đến hạnh phúc đến hạnh phúc tối thượng. Vì thế, hành giả có thể thấy mỗimột phương pháp thích hợp với tâm thức của họ, vì thế tất cả sự hướng dẫn khácbiệt gì nên được ban bố, hành giả có thể thấy một cách chính xác.

Vìthế, cũng tại thời điểm ấy, hành giả đã hoàn thành năng lực, năng lực toàn hảo,và có thể biểu hiện…

TuệUyển chuyển ngữ 19/10/2010

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=625&chid=1584

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 5388)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5374)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4523)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5276)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5552)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 6897)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5112)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 6204)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
28/09/2020(Xem: 6999)
Sáng nay chúng con, chúng tôi lại tiếp tục lên đường gieo hạt tình thương, nơi đến cứu trợ hôm nay là một địa điểm đặc biệt liên quan đến lộ trình hoằng pháp của đức Phật, đó là nơi Ngài đã thuyết Bài Kinh Lửa Cháy (Aditta-pariyaya Sutta- Tương Ưng Bộ Kinh- Kinh 35.28). Như trong kinh tả lại, vài tháng sau khi giác ngộ, Đức Phật giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài, Đức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A la hán.(Đường Link để tham khảo bài Kinh: Kinh Lua Chay)
28/09/2020(Xem: 6714)
Dharamshala: Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong), Tiến sĩ Lobsang Sangay, nhà lãnh đạo Chính trị được bầu dân chủ Tây Tạng, Cục Quản lý Trung ương Tây Tạng lưu vong đã ra mắt cuốn sách do Hoà thượng Acharya Yeshi Phuntsok, Phó Chủ tịch Quốc hội Lưu vong Tây Tạng biên soạn với chủ đề “So sánh Hiến pháp của các Quốc gia Dân chủ Khác nhau” (Comparative Constitutions of Various Democratic Nations). Tác phẩm tập trung vào việc so sánh Hiếp pháp của các quốc gia dân chủ khách nhau trên thế giới, và giải thích các loại Hiếp pháp Dân chủ khác nhau một cách đơn giản nhưng sâu sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]