Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tính cách đa dạng của tôn giáo

24/12/201009:44(Xem: 13146)
Tính cách đa dạng của tôn giáo

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾNHẠNH PHÚC
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life - NXB: WisdomPublications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur - NXB: Pressesdu Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việtdịch

4
Tínhcách đa dạng củatôn giáo

Khi chưa nhìn thấy giátrị của những truyền thống tôn giáo khác, thật khó cho ta kính trọng cáctôngiáo ấy. Tuy nhiên, sự kính trọng lẫn nhau phải căn cứ trên sự hài hoà chânthật. Chúng ta cần phải hướng đến một tình thần hài hoà, không phải vì lý dochính trị hoặc kinh tế, nhưng chỉ vì giá trị của các truyền thống khác. Riêngphần tôi, tôi luôn luôn cố gắng đề cao sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Dựa vào đức tin của mìnhđể nâng cao các giá trị căn bản của con người là một tiến trình tích cực. Cáctôn giáo chính trên thế giới đều nêu cao giá trị của tình thương, lòng từ bi vàsự tha thứ. Nhất định là mỗi tôn giáo thực hành theo cách thức của mình,nhưngtất cả đều nhắm vào những mục đích ít nhiều giống nhau – sống hạnh phúc hơn,trở nên từ bi hơn và xây dựng một thế giới với nhiều tình thương hơn –, sự đadạng về phương pháp của các tôn giáo không quan trọng lắm. Tầm quan trọng lớnhơn là phải phát huy tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ ; các tôn giáo chínhđều hàm chứa một tiềm năng như nhau. Một số người có xu hướng tin vào tôn giáo,và khi đã nhìn thấy sự đa dạng về năng khiếu trong các xu hướng của con người,thì ta phải hiểu rằng sự kiện có nhiều tôn giáo khác nhau là một điều hữu lý.Sự thực bao giờ cũng ích lợi.

Đến đây tôi xin đề cậpđến vấn đề hài hoà tôn giáo bằng cách phân biệt thành hai cấp bậc tâm linh khácnhau.

Cấp bậc tâm linh thứnhất :
đức tin và sự rộnglượng

Đối với các tôn giáochính cũng như đối với tất cả mọi người, cấp bậc tu tập thứ nhất chính là đứctin. Tôi tin rằng tất cả các tôn giáo đều đóng một vai trò quan trọng, nhưngnếu muốn cho các tôn giáo có thể góp phần một cách hữu hiệu vào lợi ích chungcủa nhân loại, cần phải có hai yếu tố.

Yếu tố thứ nhất là mỗicá nhân – tức là chúng ta đây – khi đã theo một tôn giáo nào thì nên thực thimột cách chân thật. Những lời giáo huấn có tính cách tôn giáo phải trở thànhnhững gì gắn liền với đời sống của ta và lưu lại trong ta. Đôi khi ta bước vàomột nhà thờ hay một ngôi chùa để cầu nguyện hay tĩnh tâm, nhưng lúc vừa đặtchân ra khỏi các nơi ấy thì những giây phút nhiệt tình hướng về tôn giáochẳngcòn lưu lại gì cả. Như thế không phải là cách tu tập đứng đắn. Những gì mà tôngiáo ủy thác phải được giữ lại trong ta, dù cho ta đang ở bất cứ nơi nào. Tấtcả những lời giáo huấn của tôn giáo phải luôn luôn hiện hữu trong sự sống, mỗikhi ta cần đến những cảm ứng thiêng liêng hay một sức mạnh đạo đức, ta sẽ cóngay. Khi những cảm ứng và sức mạnh đó đã hiện hữu thường xuyên trong ta, thikhi ấy ta mới có thể sử dụng chúng để đối đầu với những khó khăn vụt đến.

Tôn giáo chỉ thật sự hữuích khi đã hội nhập vào đời sống của ta. Cần phải biết tôn giáo đã dạy ta nhữnggì và hãy áp dụng ngay những điều học hỏi được vào những cảm nhận của ta. Đôikhi các ý niệm về tôn giáo chỉ được hiểu một cách thật lờ mờ trên phươngdiệnlý trí. Nếu thiếu sự cảm nhận, sức hữu hiệu của tôn giáo sẽ rất giới hạn. Vì thếphải tu tập chân thành để giúp sự sống của ta thấm nhuần với tôn giáo.

Yếu tố thứ hai liên quannhiều hơn với sự tương quan giữa các tôn giáo. Ngày nay, nhờ vào tiến bôkỹthuật và hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta lại càng lệ thuộc với nhau nhiềuhơn nữa. Những quốc gia cách biệt nhau, những lục địa xa xôi đều liên hệmậtthiết với nhau trong bối cảnh hiện tại. Sự liên hệ đó chặt chẽ đến đỗi sự tồnvong của một vùng nào đó trên địa cầu cũng đều liên hệ đến sự tồn vong củanhững nơi khác. Sự tương liên trên thế giới trở nên chặt chẽ hơn, vì thếsựtương tác giữa con người cũng mang tầm vóc rộng lớn hơn. Những biến chuyển trênđây chứng minh cho thấy thái độ chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo mangmộttầm quan trọng vô biên. Trước đây, khi các tập thể con người sinh sống cáchbiệt nhau và các tôn giáo cũng tương đối bị cô lập, thì ý niệm chỉ cần một tôngiáo duy nhất còn có thể chấp nhận được, kể cả rất hữu ích nữa. Nhưng ngày nay,hoàn cảnh đã khác và tình thế đổi thay. Thật hết sức cần thiết phải chấpnhậnsự đa dạng trong tôn giáo và chủ trương sự kính trọng lẫn nhau một cách thànhthực, một sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các tôn giáo là một điều bắt buộc. Trên đâylà yếu tố thứ hai giúp cho mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới trở nên hữuhiệu hơn trong các công tác chung về nhân đạo.

Khi tôi còn sinh sốngtrên Tây tạng, ngoài Phật giáo ra tôi không có một dịp nào để tiếp xúc với cáctín đồ của các truyển thống khác, thái độ lúc đó của tôi đối các tôn giáo kháckhông được tích cực lắm. Nhưng sau này khi tôi có dịp gặp những người thuộc cáctín ngưỡng khác nhau, và nhân dịp đó để đào sâu những kinh nghiệm cá nhân, thìthái độ của tôi đối với các tôn giáo khác đã đổi thay. Tôi hiểu rằng cáctôngiáo ấy hết sức cần thiết cho nhân loại và mỗi tôn giáo đều có tiềm năngđưađến một thế giới tốt đẹp hơn. Suốt trong những thế kỷ vừa qua, các tôn giáokhác nhau đã góp phần tích cực để cải thiện con người, và kể cả ngày hômnay,nhiều người tu tập đã đạt được sự thăng tiến nhờ vào các tôn giáo như Thiênchúa giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo hoặc các truyềnthốngkhác nữa.

Đối thoại với nhữngngười tu tập tthuộc những tôn giáo khác thật hết sức phong phú. Hãy lấy một thídụ, các dịp dàm thoại giữa tôi với ông Thomas Merton, ngày nay đã qua đời, đã giúptôi nhận ra ông là một con người tuyệt vời, và cũng giúp tôi hé thấy tiềm năngtinh thần hàm chứa trong đức tin Thiên chúa giáo. Vào một dịp khác, tôi làmquen với một nhà tu Thiên chúa giáo trong một tu viện nổi tiếng ở Montserra,thuộc Tây ban nha. Ông này đã sống ẩn dật nhiều năm trên một ngọn đồi phía sautu viện. Khi tôi đến viếng vùng này, ông đã bỏ nơi ẩn cư để xuống gặp tôi,tiếng Anh của ông ta còn tệ hơn cả tiếng Anh của tôi, nhưng điều đó đã giúp tôicó thêm can đảm để đàm thoại với ông ! Chúng tôi ngồi đối mặt với nhau và tôicất lời hỏi ông ta như sau : « Trong suốt những năm qua, ông đã làm gì trênđỉnh đồi thế ? ». Ông ta nhìn tôi một lúc rồi trả lời như sau : « Tôi thiềnđịnh về lòng từ bi và tình yêu thương ». Lúc ông ta cất lời để nói lên cáctiếng ấy, tôi đã nhận thấy thông điệp trong mắt ông. Và tôi cảm nhận được mộtniềm kính trọng sâu xa nơi con người của ông và cả những người khác giống vơíông. Đấy là những loại kinh nghiệm đã làm cho tôi tin rằng tất cả những tôngiáo trên thế giới, dù cho khác biệt trên lảnh vực triết học và tín điều, đềucó khả năng tạo ra những con người tốt. Mỗi tôn giáo đều quảng bá một thôngđiệp tuyệt vời.

Những lời giáo huấn xâydựng trên đức tin về một vị Trời sáng tạo nêu lên một hướng đi rất mạnh.Nhữngngười Thiên chúa giáo không tin vào sự tái sinh, cũng không tin vào các kiếpsống trước và các kiếp sống tương lai, nhưng sự vững tin là kiếp sống này doTrời tạo ra, đã giúp cho họ những xúc cảm gần gũi với đấng sáng tạo mà họ trựcthuộc. Họ tiếp nhận những lời giáo huấn khuyên họ phải thương yêu các ngườiđồng loại. Thật ra, nếu ta yêu quý Trời, ta phải yêu thương tất cả mọi người,bởi vì họ cũng như ta, tất cả đều là sự sáng tạo của Trời. Nếu như số phậntương lai của kẻ khác, cũng như của chính ta, đều nằm trong tay của Trời, thìđương nhiên chúng ta đều chịu chung một cảnh huống. Ngược lại, những ai đòi hỏikẻ khác phải yêu mến Trời, nhưng chính mình thì lại không tỏ ra một dấu hiệunào chứng tỏ tình yêu thương của mình đối với anh em và chị em cùng mangchungmột đức tin, thì những kẻ đó thật đáng nghi ngờ. Bất cứ một người nào tin vàomột vị Trời và vào tình thương của Ngài thì phải chứng tỏ một cách thànhthậttình cảm của mình hướng về Trời bằng cách yêu thương người đồng loại. Cách suydiễn như thế tạo ra một sự tiếp cận mạnh mẽ, có phải thế hay chăng ?

Vì thế, khi ta quán xétmột tôn giáo dưới nhiều khía cạnh khác nhau, như cách ta vừa làm – khôngphảibằng chính quan điểm triết học của ta, nhưng phải dựa trên nhiều cấp bậckhácnhau –, thì nhất định tất cả các tôn giáo chính đều mang tiềm năng giúp cho conngười trở nên hoàn hảo hơn. Khi giao du với các tín đồ của các tôn giáo khác,ta sẽ biết mở rộng tâm thức và đưa đến một sự tương kính đối với các truyềnthống khác. Tôi đã học hỏi được nhiều sáng kiến mới lạ liên quan đến cácphươngpháp tu tập khi tiếp xúc với các tôn giáo khác và đem ghép thêm vào cáchtu tậpcủa riêng tôi. Đồng thời, các anh em chị em Thiên chúa giáo cũng nên chọn và sửdụng một số kỹ thuật của Phật giáo – chẳng hạn như sự chú tâm vào một điểm vàcác phương pháp giúp phát huy sự rộng lượng, lòng từ bi và tình yêu thương.Những cuộc gặp gỡ và đối thoại như thế thật hữu ích, vì đã tích cực góp phầnlàm gia tăng thêm sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Các nhà chính trị và cácnguyên thủ Quốc gia thường nói đến sự tương trợ và đoàn kết. Tại sao chúng talà những người thuộc phía tôn giáo lại lại không thể nêu lên điều đó ? Tôi nghĩrằng đã đến lúc phải làm việc ấy. Vào năm 1997, tại Abisse thuộc nước Ý,cácngười đại diện các tôn giáo khác nhau trên thế giới tập họp lại để cùng nhaucầu nguyện, tuy rằng tôi không tin chắc rằng chữ « cầu nguyện » là một chữthích nghi để mô tả một cách chính xác cách tu tập của tất cả các tôn giáo.Nhưng cũng chẳng sao, điều thiết yếu là những thành phần tôn giáo thuộc cáctruyền thống khác nhau đã tụ hội lại cùng một địa điểm để cầu nguyện, theo sựtin tưởng riêng của mỗi truyền thống. Theo tôi biến cố đó mang một tính cáchrất tích cực. Cần phải tiếp tục trên đường hướng ấy và gia tăng nhiều hơn nữa nhữngcố gắng đem đến hài hoà và giúp các tôn giáo trên toàn thế giới xích lạigầnnhau hơn. Nếu không, có thể chúng ta sẽ còn phải đối đầu với thật nhiều khókhăn có thể chia rẽ cả nhân loại.

Nếu như tôn giáo là mộtliều thuốc duy nhất có thể làm suy giảm những xung đột giữa con người, thì quảthật là một thảm họa nếu liều thuốc ấy lại hoá thành nguồn gốc đưa đến xung độtvới nhau. Kể cả ngày nay cũng như từ ngàn xưa, những bất hoà nhân danh tôn giáovẫn thường bùng nổ, tôi thấy điều ấy hết sức là đáng buồn. Khi suy tư một cáchcởi mở hơn và sâu xa hơn, ta sẽ nhận thấy tình thế trong quá khứ khác hẳn vớingày nay. Trong tình thế hiện tại, thay vì bị cô lập, chúng ta trở nên liên đớivới nhau nhiều hơn. Vì thế thật cần thiết phải tạo lập sự tương quan chặt chẽgiữa các tôn giáo, giúp cho các đoàn thể có thể hợp tác bên cạnh nhau trong nổlực chung hướng về sự an lành của nhân loại.

Cấp bậc tâm linh thứhai :
từ bi là một tôn giáotoàn cầu

Cấp bậc tâm linh thứhai, vượt lên trên mọi dị biệt về tôn giáo, đó là lòng từ bi và tình thương yêugiữa con người. Cấp bậc này quan trọng hơn nhiều so với cấp bậc thứ nhất, vì dùrằng tôn giáo có tốt đẹp đến đâu, thì cũng chỉ có một số ít người theo. Hầu hếttrong số năm đến sáu tỷ người trên hành tinh này, hình như không có mấy ai tu tậphoặc theo bất cứ một tôn giáo nào cả. Tùy theo truyền thống gia đình, họtựnhận diện như thuộc vào nhóm này hay nhóm khác – « tôi là người thuộc Ấnđộgiáo », « tôi là người Phật giáo », « tôi là người Thiên chúa giáo » –, nhưngthật ra trong chính lương tâm họ, họ không phải là những người tu tập. Cũngchẳng sao ! Một người nào đó gia nhập hay không gia nhập vào một tôn giáo làhoàn toàn thuộc quyền cá nhân của họ. Tất cả các vị thầy lớn trong thời cổ xưa,chẳng hạn như Đức Phật, Mahavira, Jésus, Mahomet, không có vị nào thành côngtrong việc khai tâm cho hết tất cả mọi người. Chưa hề có ai làm được việc ấy.Sự kiện gán cho những người không tin là vô thần cũng chẳng hề hấn gì. Một sốcác học giả Tây phương xem những người Phật giáo là vô thần, vì lý do họkhôngtin vào một vị sáng tạo. Cách hiểu như thế đôi khi bắt buộc tôi phải chọn nhữngchữ khác chẳng hạn như chữ « cực đoan » để chỉ định những người không tin gìcả. Tôi gọi họ là những người « không tin cực đoan », bởi vì chẳng nhữnghọkhông tin vào một tôn giáo nào hết mà đồng thời họ lại tin chắc chắn mộtcáchquả quyết là bất cứ một hình thức tâm linh nào cũng đều vô ích. Chúng taphảitự nhắc nhở để nhớ rằng những kẻ đó cũng đều là những thành phần của nhân loại,và cũng như tất cả kẻ khác, họ cũng muốn được hạnh phúc và sống một cuộcsốngthanh thản và êm đềm. Chính đó mới là điều quan trọng.

Theo ý tôi, chẳng có gìlà xấu nếu muốn làm một kẻ không tin, nhưng một khi đã là thành phần củagiốngngười, thì họ đều có nhu cầu về thương yêu và lòng từ bi như nhau. Đấy là nhữnggì thiết yếu nhất trong những lời giảng huấn của các truyền thống tôn giáo. Nếukhông có từ bi thì ngay cả những người tin vào tôn giáo cũng có thể trở thànhnhững người gây ra tai hại. Hơn nữa, dù ta tin hay không tin, thì sự tu tập cănbản vẫn thuộc vào lãnh vực của tim ta. Theo tôi, từ bi và tình thương yêu làtôn giáo toàn cầu. Tất cả mọi người đều cần đến những thứ ấy vì chúng mang lạicho ta sức mạnh nội tâm, niềm hy vọng và sự an bình trong tâm thức. Từ bi vàtình thương yêu quả thật cần thiết cho tất cả mọi người.

Như tôi đã nói đến trênđây, một vài anh em và chị em người Thiên chúa giáo, kể cả những người tu hànhhay thế tục, đã nói với tôi là họ từng sử dụng các phương pháp Phật giáođểphát huy lòng từ bi cũng như đức tin Thiên chúa giáo của chính họ. Tôi vẫnthường nhắc nhở các bạn hữu Tây phương rằng tốt hơn hết cứ giữ lấy tôn giáotruyền thống của mình. Thay đổi tôn giáo không phải dễ và đôi khi lại cóthểgặp những chuyện rối rắm.

Nhưng đối với những ai thấyrằng con đường Phật giáo hữu hiệu và phù hợp hơn với cách suy nghĩ của mình thìkhi đó mới nên đắn đo một cách nghiêm chỉnh về việc này. Và một khi đã hoàntoàn tin chắc là Phật giáo phù hợp với mình, thì lúc đó cứ đến với Phậtgiáo, một cách hoàn toàn tự do không có sự ép buộc nào. Nhưng dù sao, sau đâylà những gì không được phép quên : đôi khi vì muốn biện minh cho sự cải đạo củamình khi chọn một đức tin mới, một vài người có thái độ chỉ trích tôn giáo haytruyền thống trước đây của họ. Tôn giáo cũ trước đây dù không còn phù hợp vớilòng tin của họ nữa, nhưng vẫn hữu ích cho nhân loại. Biết công nhận quan điểmvà quyền hạn của kẻ khác cũng như những giá trị trong truyền thống của kẻ khác,có nghĩa là quý vị phải tiếp tục tôn vinh tôn giáo trước đây của quý vị.Điềunày thật hết sức quan trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16012)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3697)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6066)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6264)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3970)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8307)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5590)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15575)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10805)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7899)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]