Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XIII: Sự Thông Suốt

08/12/201016:59(Xem: 11104)
Chương XIII: Sự Thông Suốt

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG XIII
SỰ THÔNG SUỐT
(WISDOM)


Đến đây chúng ta đã làmquen với những kỹ thuật rèn luyện tâm trí của mình vì vậy nên chúng ta có thểgiữ cho tâm trí của mình tập trung hoàn toàn vào một đối tượng thiện định. Khảnăng này là một phương tiện cần thiết để nắm bắt được sự trống rỗng(emptiness)riêng biệt thông suốt. Mặc dù tôi đã đề cập đến "sự trống rỗng" trongsuốt cuốn sách này, bây giờ chúng ta hãy khảo sát sâu hơn về "sự trốngrỗng".

BẢN NGÃ (CÁI TÔI)
(THE SELF)

Tát cả chúng ta đều có ýthức rõ rệt về "bản ngã", cũng như một ý thức rõ rệt về "cáitôi". Chúng ta biết rằng chúng ta đang ám chỉ ai khi chúng ta nghĩ"Tôi sắp sửa đi làm", "Tôi đang đi về nhà" hoặc "Tôiđói bụng". Thậm chí loài vật cũng có ý thức về đồng loại của chúng, tuynhiên chúng không thể diễn đạt bằng lời nói như chúng ta. Khi chúng ta cố gắngtìm hiểu "cái tôi" là gì, chúng ta khó có thể xác định được.

Ở Aán Độ cổ đại, nhiềunhà triết học Hindu đã cho rằng "cái tôi" này tuỳ thuộc vào thể xácvà tâm hồn của từng người. Họ cho là ắt hẳn phải có một nhân tố nào đó tạo rasự liên tục giữa những giai đoạn khác nhau của "cái tôi" , ví dụ nhưlà "cái tôi" trong: "khi tôi còn trẻ" hoặc "khi tôi vềgià" và thậm chí là "cái tôi" trong kiếp trước và "cáitôi" trong kiếp sau. Vì tất cả những "cái tôi" này đều tồn tạingắn ngũi và không vĩnh viễn, người ta thấy là ắt hẳn phải có một "cáitôi" nào đó độc lập và vĩnh cửu sở hữu mọi giai đoạn của sự sống này. Đâylà nền tảng cho việc thừa nhận một "cái tôi" riêng biệt với tâm hồnvà thể xác, người ta gọi nó là "linh hồn" (atman).

Thật ra, tất cả chúngđều có những quan điểm về cái tôi giống như vậy, chúng ta xem nó như nòng cốtcủa đời sống chúng ta. Chúng ta không cảm nhận được nó như những bộ phận tay,chân, đầu và mình, đúng hơn là chúng ta xem nó như là chủ nhân của những bộphận này. Tôi tin vào "cái tôi" độc lập nằm tận nơi sâu thẳm tronglòng mình, nó sở hữu những bộ phận hợp thành chúng ta.

Có gì không ổn với đứctin này? Tại sao một cái tôi độc lập với thể xác và tâm hồn lại bị phản đối?Những nhà triết học Phật giáo cho rằng một "cái tôi" có thể được xemlà có mối quan hệ với tâm hồn và thể xác. Họ giải thích rằng nếu một "linhhồn" hay "cái tôi" tồn tại, thì hoặc là nó tách rời với những bộphận tạo ra nó hoặc là nó có những bộ phận riêng biệt của nó. Tuy nhiên , nếunó tách rời với tâm hồn và thể xác, thì sẽ không xác đáng, bởi vì như vậy cónghĩa là nó không có liên quan gì đến tâm hồn và thể xác. Và việc đề xướng ramột cái tôi không thể phân chia và vĩnh cửu tạo nên tâm hồn và thể xác là buồncười và lố bịch. Tại sao? Bởi vì một cái tôi không thể phân chia, trong khi đóbộ phận cơ thể thì rất nhiều. Cái tôi chỉ có một thì làm sao đóng nhiều vai tròtrong việc điều khiển cơ thể?

Vậy thì bản chất của"cái tôi" mà chúng ta quá quen thuộc này là gì? Một số nhà triết họcPhật giáo hướng đến sự kết hợp giữa những bộ phận thể xác và tâm hồn và xemtoàn bộ tập hợp đó là cái tôi. Những người khác lại cho rằng sự liên tục ý thứcchúng ta chính là "cái tôi". Cũng có những người tin rằng những nănglực tinh thần, nền tảng tâm hồn của tất cả mọi người, là "cái tôi".Tất cả những quan điểm trên đều là những cố gắng để dung hòa những đức tin củachúng ta về "cái tôi". Trong khi chúng ta nhận ra được rằng sự cốđịnh và vĩnh cửu là phi lý, chúng ta tự nhiên gán cho "cái tôi" nhữngbản chất mà mình thấy hợp lý.

CÁI TÔI VÀ NHỮNG ĐAU KHỔ
(SELF ANDAFFLICTIONS)

Nếu chúng ta suy xétnhững cảm xúc của chúng ta, những kinh nghiệm của chúng ta về lòng lưu luyến vàsự thù địch mạnh mẽ, thì chúng ta sẽ thấy rằng căn nguyên của những tình cảmđau khổ đó là xúc cảm mãnh liệt bám vào "cái tôi". "Cáitôi" như vậy chúng ta cho là độc lập và tự chủ. Khi đức tin của chúng tavề "cái tôi" mạnh mẽ thêm thì mong ước bảo vệ và thỏa mãn mó cũngtăng lên.

Tôi sẽ cho bạn một vídụ: khi bạn trông thấy một chiếc đồng hồ đẹp trong cửa hiệu tự nhiên bạn bị lôicuốn. Nếu người bán hàng đánh rơi chiếc đống hồ đó, bạn sẽ nghĩ "Ô trời!Chiếc đồng hồ bị rơi xuống đất rồi". Điều này gây tác động lên bạn khôngmạnh mẽ lắm. Tuy nhiên, nếu bạn mua chiếc đông hồ đó, và từ đó bạn xem nó là"chiếc đồng hồ của tôi", rồi thì , nếu bạn đánh rơi nó, thì bạn sẽ bịtác động rất mạnh mẽ, bạn sẽ cảm thấy như tim của mình nhảy ra ngoài vậy!! Cảmxúc mạnh mẽ này xuất phát từ đâu? Sự sở hữu xuất phát từ "cái tôi".YÙ thức về "cái tôi’’ càng mạnh thì ý thức về "cái của tôi" cũngcàng mạnh. Đây chính là lý do tại sao bạn nên giảm bớt đức tin về một cái tôiđộc lập và tự chủ . Môt khi bạn loại bỏ được ý thức về cái tôi như vậy, nhữngcảm xúc được bắt nguồn từ cái tôi đó cũng biến mất.

LÒNG VỊ THA CỦA NHỮNG NGƯỜI PHI THƯỜNG
(SELFLESSNESS OF ALLPHENOMENA)

Họ không phải là nhữngngười không có "cái tôi". Tất cả những người phi thường đều có"cái tôi". Nếu chúng ta phân tích hay tìm hiểu một bông hoa, bằngcách nhìn nơi những bộ phận của nó, chúng ta sẽ không tìm thấy gì. Điều này chothấy rằng bông hoa thật sự không sở hữu những tính chất bên trong. Một chiếc xeca, một cái bàn hay một cái ghế cũng vậy. Thậm chí là chúng ta có thể tách mùicủa chúng ra được một cách khoa học, rồi đó chúng ta có thể chỉ ra được mùi vàvị của chúng.

Tuy vậy, chúng ta khôngthể phủ nhận sự tồn tại của bông hoa và mùi thơm của nó. Vậy thì chúng ta tồntại như thế nào? Một số nhà triết học Phật giáo đã giải thích rằng cái bông hoamà bạn trông thấy chỉ là dáng vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Nó chỉ thật sự tồntại theo cách mà chúng ta cảm nhận nó thôi. Theo sự giải thích này, nếu có mộtbông hoa trên bàn, bông hoa mà tôi cảm nhận được bằng tâm hồn của tôi mới đúngthực chất là bông hoa đó, còn bông hoa mà bạn cảm nhận bằng mắt và trông thấy ởtrên bàn có thể chỉ là vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Mùi của bông hoa mà bạnngữi thấy có thể cũng đúng mùi mà bạn cảm nhận được. Bông hoa mà tôi cảm nhậncó thể khác với bông hoa mà bạn cảm nhận.

Sự quan sát bằng tâm hồnnày làm hạn chế tri giác của chúng ta về sự thật của vật thể, nó đóng một vaitrò quan trọng trong ý thức. Người ta nghĩ ra những sự việc khác nhau, bị kíchthích bởi những hiện tượng phi thường khác nhau và cuối cùng chẳng tìm thấyđược điều gì cả.

SỰ TRỐNG RỖNG VÀ CĂN NGUYÊN PHỤ THUỘC
(EMPTINESS AND DEPENDENTORIGINATION)

Vậy thì "sự trốngrỗng" là gì? Nó đơn giản là "chẳng tìm thấy được gì cả". Khichúng ta tìm kiếm bông hoa trong những bộ phận của nó, chúng ta đối mặt với"sự không hiện hữu" của bông hao mà chúng ta muôn tìm. "Sự khônghiện hữu" đó gọi là "sự trống rỗng" của bông hoa. Nhưng mà nếuvậy thì không có bông hoa sao? Dĩ nhiên là có. Tìm kiếm căn nguyên của bất kỳmột sự vật hiện tượng nào có nghĩa là đạt tới những cảm nhận tinh vi về"sự trống rỗng" của nó, cái sự "chẳng tìm thấy được gì cả".Tuy nhiên, bạn đừng nghĩ là "sự trống rỗng" của một bông hoa đơn giảnlà tình trạng "chẳng tìm thấy được gì cả" của nó mà chúng ta đối mặtkhi chúng ta tìm kiếm những bộ phận của nó. Đúng hơn, nó là bản chất phụ thuộcvào bông hoa hoặc những bộ phận của nó mà bạn đặt tên, chính những điều đó cắtnghĩa "sự trống rỗng" của nó. Điều này đuợc gọi là "căn nguyênphụ thuộc".

THIỀN ĐỊNH VỀ "SỰ TRỐNG RỖNG"
(MEDITATION ONEMPTINESS)

Thấu hiểu được "sựtrống rỗng" không phải là điều dễ dàng thực hiện được, những trường đạihọc Tôn Giáo ở Tây Tạng đã bỏ ra nhiều năm để sinh viên học tập và nghiên cứuvề nó. Những nhà sư học thuộc lòng những bài kinh Phật và những lời bình chúqua những bậc thầy người Tây Tạng và Aán Độ. Họ học tập nghiên cứu cùng vớinhững học giả thông thái và trải qua nhiều giờ trong một ngày để tranh luận vềvấn đề. Để gia tăng hiểu biết về "sự trống rỗng", chúng ta phải họctập, nghiên cứu và suy niệm về nó rất nhiều. Điều quan trọng là phải làm côngviệc đó cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn của một bậc thầy có đủ năng lực, một ngườithấu hiểu "sự trống rỗng" hoàn tòan.

Cùng với những vấn đềkhác được đề cập trong sách này, sự thông thái được trau dồi bằng những kỹthuật "thiền định phân giải" và kỹ thuật "thiền định cốđịnh" . Tuy nhiên, trong trường hợp này, nhằm nâng cao nhận thức hiểu biếtvề "sự trống rỗng", bạn không luân phiên 2 kỹ thuật này, mà thực rathì bạn kết hợp chúng. Bạn tập trung tâm trí mình vào việc phân tích "sựtrống rỗng" bằng phương pháp "tập trung vào một điểm duy nhất".Điều này được gọi là sự hợp nhất của duy trì điềm tĩnh và sự hiểu biết sâu sắcđặc biệt. Bằng cách liên tục thiền định theo cách này, sự hiểu biết của bạnbiến thành nhận thức thật sự về "sự trống rỗng". Ở điểm này, bạn đạttới "giai đoạn chuẩn bị".

Nhận thức của bạn chỉ làkhái quát, vì nhận thức của bạn về "sự trống rỗng’’ đã được xuất phát từnhững suy luận hợp lý. Tuy nhiên, điều này trang bị cho người thiền định để họcó thể đạt được những nhận thức đúng đắn về "sự trống rỗng".

Lúc này, người thiềnđịnh liên tục trau dồi và nâng cao nhận thức suy luận của mình về "sựtrống rỗng". Điều này dẫn đến việc đạt được "hướng nhìn nhận" .Bây giờ, người thiền định đó thấy được "sự trống rỗng" trực tiếp, rõràng như là họ gạch một đường thẳng lên tay của mình.

Bằng cách liên tục về"sự trống rỗng", người ta tiến tới "thiền định". Đến đây,không còn khía cạnh nào khác của cuộc hành trình tâm hồn cần thiết phải đượctrau dồi.

NHỮNG MỨC ĐỘ BỒ TÁT
(THE BODHISATTVALEVELS)

Một tín đồ Mahayana (một giáo phái của Phật giáo) bắt đầu quá trình trau dồi phát triển của họ quanhững giai đoạn dẫn tới Cõi Phật ở một mức độ phát sinh tấm lòng Bồ Tát. Là mộtngười luyện tập, chúng ta nên phát triển mọi phẩm chất khác nhau đã được trìnhbày trong cuốn sách này. Khi có được hiểu biết thật sự về luật nhân quả, chúngta phải loại bỏ những hành vi gây hại cho bản thân và cho mọi người. Chúng taphải nhận thức được rằng cuộc sống là một chuổi dài đau khổ. Chúng ta phải cókhát vọng vượt qua những đau khổ đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải có khát vọngtừ bi giúp làm nhẹ bớt những đau khổ tràn lan của mọi người, những đau khổ đógiăng bẫy làm cho mọi người sa chân vào vũng bùn lầy lội của vòng luẩn quẩn.Chúng ta phải có được lòng yêu thương - tử tế lòng mong ước đem đến cho mọingười niềm hạnh phúc vô bờ bến. Chúng ta phải cảm nhận được trách nhiệm củamình là phải đạt tới sự giác ngộ cuối cùng.

Ở mức độ giác ngộ này,người ta đạt tới "sự tích lũy". Cùng với những động cơ thúc đẩy củatrạng thái bồ tát, người ta liên kết được "đức trầm tĩnh" và nhữnghiểu biết đặc biệt của mình, bằng cách đó người ta có được những nhận thức về"sự trống rỗng" đã được mô tả bên trên. Đến lúc này người ta đạt được"sự chuẩn bị". Trong suốt "sự tích lũy" và "sự chuẩnbị", vị Bồ Tát băng qua một khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập,nhờ đó mà vị Bồ Tát tích lũy được vô số tài năng và đ?ng thời mở rộng, nâng caosự thông suốt của mình.

Khi nhận thức về"sự trống rỗng" của một người không còn ở mức độ suy luận nữa, ngườiđó đã đạt tới mức độ thứ nhất trong số 10 mức độ bồ tát dẫn đến Cõi Phật. Quaviệc suy niệm liên tục về "sự trống rỗng", người đó đã đạt tới mức độthứ hai dẫn đến Cõi Phật và đồng thời đạt được "sự thiền định". Theođà tiến triển, người đó vượt qua khoảng thời gian luyện tập vô tận thứ hai và đạtđược mức độ thứ ba, tích lũy vô số tài năng và sự thông suốt.

Liên tục duy trì ba mứcđộ bố tát này, người đó vượt qua khoảng thới gian tập luyện vô tận thứ ba vànhờ đó đạt được "sự nâng cao kiến thức".

Bây giờ, người đó đã làmột Đức Phật hoàn toàn giác ngộ.

Vậy thì phía trước vẫncòn nhiều khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập nữa. Chúng ta phải kiêntrì. Chúng ta phải tiến lên từng bước một, liên tục trau dồi luyện tập. Chúngta cũng phải giúp mọi người luyện tập đạt tới mức độ như chúng ta và ngăn mìnhkhông gây hại cho mọi người. Khi lòng ích kỹ của chúng ta giảm dần và lòng vịtha của chúng ta tăng lên, chúng ta trở nên hạnh phúc hơn, mọi người xung quanhcũng hạnh phúc hơn. Đây là một cách để chúng ta tích lũy được những tài năng vàđức hạnh cần thiết nhằm đạt tới cõi Phật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2020(Xem: 4916)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 4937)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5369)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4809)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4114)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7360)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
20/12/2020(Xem: 5931)
Trong một thời khắc lịch sử, cả nước đã chứng kiến sự hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai khi ba thế hệ của triều đại Wangchuck, Vương quốc Phật giáo Buhtan đến viếng thăm khu đất của Pungthang Dewachhenpoi Phodrang vào ngày hôm 16 vừa qua. Lễ Kỷ niệm 113 năm Quốc khánh Vương quốc Bhutan, được tổ chức bên trong Punakha Dzong “Cung điện Hạnh Phúc”, từng là nơi ngự của Lama Zhabdrung Ngawang Namgyel đáng tôn kính hơn 400 năm trước, người đã có công thống nhất Bhutan và làm nền tảng để đất nước này phát triển an bình, thịnh vượng cho đến ngày nay.
20/12/2020(Xem: 5342)
Matxcơva, ngày 15 tháng 12: Hội nghị Bàn tròn trực tuyến với chủ đề “Đối thoại các Tôn giáo trong Thế giới hiện đại, Dialogue of Religions in Modern World“ do Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Viện Nghiên cứu Học thuật về Cơ đốc giáo phương Đông (INaSEC) đồng tổ chức tại Khoa Tôn giáo và Thần học (FRT) thuộc Đại học Vrije Amsterdam và Đại học Chính thống Cơ đốc giáo, Nga nhân danh Thánh John Divine.
19/12/2020(Xem: 6087)
Cơ quan Chính quyền Trung ương Tây Tạng lưu vong (CTA) cho biết, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen, vị học giả Phật giáo Tây Tạng đã viên tịch, xả báo thân tại tu viện Gaden Jangtse, miền nam Ấn Độ, theo truyền thông cho hay, Ngài đã “Chết lâm sàng” đến nay gần 1 tháng (26 ngày), nhưng thi thể vẫn không phân hủy. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo và Văn hóa thuộc (CTA) cho thấy rằng, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen đã đi vào trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là thukdam (Tib: ཐུགས་ དམ་).
19/12/2020(Xem: 5243)
Tòa nhà Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan, thủ đô Thimphu, Bhutan. Hôm thứ Năm, ngày 10 tháng 12 vừa qua, cả hai Nghị viện Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan đã thông qua dự luật hợp pháp hóa các mối quan hệ đồng tính, biến Vương quốc Himalaya nhỏ bé trở thành quốc gia châu Á mới nhất thực hiện các bước, nhằm nới lỏng các hạn chế đối với các mối quan hệ đồng giới. Trước đó, mục 213 và 214 của bộ Luật Hình sự Vương quốc Phật giáo này quy định xu hướng “Tình dục trái với tự nhiên”, được hiểu rộng rãi là đồng tính luyến ái – không được phép.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]