Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XIII: Sự Thông Suốt

08/12/201016:59(Xem: 11567)
Chương XIII: Sự Thông Suốt

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG XIII
SỰ THÔNG SUỐT
(WISDOM)


Đến đây chúng ta đã làmquen với những kỹ thuật rèn luyện tâm trí của mình vì vậy nên chúng ta có thểgiữ cho tâm trí của mình tập trung hoàn toàn vào một đối tượng thiện định. Khảnăng này là một phương tiện cần thiết để nắm bắt được sự trống rỗng(emptiness)riêng biệt thông suốt. Mặc dù tôi đã đề cập đến "sự trống rỗng" trongsuốt cuốn sách này, bây giờ chúng ta hãy khảo sát sâu hơn về "sự trốngrỗng".

BẢN NGÃ (CÁI TÔI)
(THE SELF)

Tát cả chúng ta đều có ýthức rõ rệt về "bản ngã", cũng như một ý thức rõ rệt về "cáitôi". Chúng ta biết rằng chúng ta đang ám chỉ ai khi chúng ta nghĩ"Tôi sắp sửa đi làm", "Tôi đang đi về nhà" hoặc "Tôiđói bụng". Thậm chí loài vật cũng có ý thức về đồng loại của chúng, tuynhiên chúng không thể diễn đạt bằng lời nói như chúng ta. Khi chúng ta cố gắngtìm hiểu "cái tôi" là gì, chúng ta khó có thể xác định được.

Ở Aán Độ cổ đại, nhiềunhà triết học Hindu đã cho rằng "cái tôi" này tuỳ thuộc vào thể xácvà tâm hồn của từng người. Họ cho là ắt hẳn phải có một nhân tố nào đó tạo rasự liên tục giữa những giai đoạn khác nhau của "cái tôi" , ví dụ nhưlà "cái tôi" trong: "khi tôi còn trẻ" hoặc "khi tôi vềgià" và thậm chí là "cái tôi" trong kiếp trước và "cáitôi" trong kiếp sau. Vì tất cả những "cái tôi" này đều tồn tạingắn ngũi và không vĩnh viễn, người ta thấy là ắt hẳn phải có một "cáitôi" nào đó độc lập và vĩnh cửu sở hữu mọi giai đoạn của sự sống này. Đâylà nền tảng cho việc thừa nhận một "cái tôi" riêng biệt với tâm hồnvà thể xác, người ta gọi nó là "linh hồn" (atman).

Thật ra, tất cả chúngđều có những quan điểm về cái tôi giống như vậy, chúng ta xem nó như nòng cốtcủa đời sống chúng ta. Chúng ta không cảm nhận được nó như những bộ phận tay,chân, đầu và mình, đúng hơn là chúng ta xem nó như là chủ nhân của những bộphận này. Tôi tin vào "cái tôi" độc lập nằm tận nơi sâu thẳm tronglòng mình, nó sở hữu những bộ phận hợp thành chúng ta.

Có gì không ổn với đứctin này? Tại sao một cái tôi độc lập với thể xác và tâm hồn lại bị phản đối?Những nhà triết học Phật giáo cho rằng một "cái tôi" có thể được xemlà có mối quan hệ với tâm hồn và thể xác. Họ giải thích rằng nếu một "linhhồn" hay "cái tôi" tồn tại, thì hoặc là nó tách rời với những bộphận tạo ra nó hoặc là nó có những bộ phận riêng biệt của nó. Tuy nhiên , nếunó tách rời với tâm hồn và thể xác, thì sẽ không xác đáng, bởi vì như vậy cónghĩa là nó không có liên quan gì đến tâm hồn và thể xác. Và việc đề xướng ramột cái tôi không thể phân chia và vĩnh cửu tạo nên tâm hồn và thể xác là buồncười và lố bịch. Tại sao? Bởi vì một cái tôi không thể phân chia, trong khi đóbộ phận cơ thể thì rất nhiều. Cái tôi chỉ có một thì làm sao đóng nhiều vai tròtrong việc điều khiển cơ thể?

Vậy thì bản chất của"cái tôi" mà chúng ta quá quen thuộc này là gì? Một số nhà triết họcPhật giáo hướng đến sự kết hợp giữa những bộ phận thể xác và tâm hồn và xemtoàn bộ tập hợp đó là cái tôi. Những người khác lại cho rằng sự liên tục ý thứcchúng ta chính là "cái tôi". Cũng có những người tin rằng những nănglực tinh thần, nền tảng tâm hồn của tất cả mọi người, là "cái tôi".Tất cả những quan điểm trên đều là những cố gắng để dung hòa những đức tin củachúng ta về "cái tôi". Trong khi chúng ta nhận ra được rằng sự cốđịnh và vĩnh cửu là phi lý, chúng ta tự nhiên gán cho "cái tôi" nhữngbản chất mà mình thấy hợp lý.

CÁI TÔI VÀ NHỮNG ĐAU KHỔ
(SELF ANDAFFLICTIONS)

Nếu chúng ta suy xétnhững cảm xúc của chúng ta, những kinh nghiệm của chúng ta về lòng lưu luyến vàsự thù địch mạnh mẽ, thì chúng ta sẽ thấy rằng căn nguyên của những tình cảmđau khổ đó là xúc cảm mãnh liệt bám vào "cái tôi". "Cáitôi" như vậy chúng ta cho là độc lập và tự chủ. Khi đức tin của chúng tavề "cái tôi" mạnh mẽ thêm thì mong ước bảo vệ và thỏa mãn mó cũngtăng lên.

Tôi sẽ cho bạn một vídụ: khi bạn trông thấy một chiếc đồng hồ đẹp trong cửa hiệu tự nhiên bạn bị lôicuốn. Nếu người bán hàng đánh rơi chiếc đống hồ đó, bạn sẽ nghĩ "Ô trời!Chiếc đồng hồ bị rơi xuống đất rồi". Điều này gây tác động lên bạn khôngmạnh mẽ lắm. Tuy nhiên, nếu bạn mua chiếc đông hồ đó, và từ đó bạn xem nó là"chiếc đồng hồ của tôi", rồi thì , nếu bạn đánh rơi nó, thì bạn sẽ bịtác động rất mạnh mẽ, bạn sẽ cảm thấy như tim của mình nhảy ra ngoài vậy!! Cảmxúc mạnh mẽ này xuất phát từ đâu? Sự sở hữu xuất phát từ "cái tôi".YÙ thức về "cái tôi’’ càng mạnh thì ý thức về "cái của tôi" cũngcàng mạnh. Đây chính là lý do tại sao bạn nên giảm bớt đức tin về một cái tôiđộc lập và tự chủ . Môt khi bạn loại bỏ được ý thức về cái tôi như vậy, nhữngcảm xúc được bắt nguồn từ cái tôi đó cũng biến mất.

LÒNG VỊ THA CỦA NHỮNG NGƯỜI PHI THƯỜNG
(SELFLESSNESS OF ALLPHENOMENA)

Họ không phải là nhữngngười không có "cái tôi". Tất cả những người phi thường đều có"cái tôi". Nếu chúng ta phân tích hay tìm hiểu một bông hoa, bằngcách nhìn nơi những bộ phận của nó, chúng ta sẽ không tìm thấy gì. Điều này chothấy rằng bông hoa thật sự không sở hữu những tính chất bên trong. Một chiếc xeca, một cái bàn hay một cái ghế cũng vậy. Thậm chí là chúng ta có thể tách mùicủa chúng ra được một cách khoa học, rồi đó chúng ta có thể chỉ ra được mùi vàvị của chúng.

Tuy vậy, chúng ta khôngthể phủ nhận sự tồn tại của bông hoa và mùi thơm của nó. Vậy thì chúng ta tồntại như thế nào? Một số nhà triết học Phật giáo đã giải thích rằng cái bông hoamà bạn trông thấy chỉ là dáng vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Nó chỉ thật sự tồntại theo cách mà chúng ta cảm nhận nó thôi. Theo sự giải thích này, nếu có mộtbông hoa trên bàn, bông hoa mà tôi cảm nhận được bằng tâm hồn của tôi mới đúngthực chất là bông hoa đó, còn bông hoa mà bạn cảm nhận bằng mắt và trông thấy ởtrên bàn có thể chỉ là vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Mùi của bông hoa mà bạnngữi thấy có thể cũng đúng mùi mà bạn cảm nhận được. Bông hoa mà tôi cảm nhậncó thể khác với bông hoa mà bạn cảm nhận.

Sự quan sát bằng tâm hồnnày làm hạn chế tri giác của chúng ta về sự thật của vật thể, nó đóng một vaitrò quan trọng trong ý thức. Người ta nghĩ ra những sự việc khác nhau, bị kíchthích bởi những hiện tượng phi thường khác nhau và cuối cùng chẳng tìm thấyđược điều gì cả.

SỰ TRỐNG RỖNG VÀ CĂN NGUYÊN PHỤ THUỘC
(EMPTINESS AND DEPENDENTORIGINATION)

Vậy thì "sự trốngrỗng" là gì? Nó đơn giản là "chẳng tìm thấy được gì cả". Khichúng ta tìm kiếm bông hoa trong những bộ phận của nó, chúng ta đối mặt với"sự không hiện hữu" của bông hao mà chúng ta muôn tìm. "Sự khônghiện hữu" đó gọi là "sự trống rỗng" của bông hoa. Nhưng mà nếuvậy thì không có bông hoa sao? Dĩ nhiên là có. Tìm kiếm căn nguyên của bất kỳmột sự vật hiện tượng nào có nghĩa là đạt tới những cảm nhận tinh vi về"sự trống rỗng" của nó, cái sự "chẳng tìm thấy được gì cả".Tuy nhiên, bạn đừng nghĩ là "sự trống rỗng" của một bông hoa đơn giảnlà tình trạng "chẳng tìm thấy được gì cả" của nó mà chúng ta đối mặtkhi chúng ta tìm kiếm những bộ phận của nó. Đúng hơn, nó là bản chất phụ thuộcvào bông hoa hoặc những bộ phận của nó mà bạn đặt tên, chính những điều đó cắtnghĩa "sự trống rỗng" của nó. Điều này đuợc gọi là "căn nguyênphụ thuộc".

THIỀN ĐỊNH VỀ "SỰ TRỐNG RỖNG"
(MEDITATION ONEMPTINESS)

Thấu hiểu được "sựtrống rỗng" không phải là điều dễ dàng thực hiện được, những trường đạihọc Tôn Giáo ở Tây Tạng đã bỏ ra nhiều năm để sinh viên học tập và nghiên cứuvề nó. Những nhà sư học thuộc lòng những bài kinh Phật và những lời bình chúqua những bậc thầy người Tây Tạng và Aán Độ. Họ học tập nghiên cứu cùng vớinhững học giả thông thái và trải qua nhiều giờ trong một ngày để tranh luận vềvấn đề. Để gia tăng hiểu biết về "sự trống rỗng", chúng ta phải họctập, nghiên cứu và suy niệm về nó rất nhiều. Điều quan trọng là phải làm côngviệc đó cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn của một bậc thầy có đủ năng lực, một ngườithấu hiểu "sự trống rỗng" hoàn tòan.

Cùng với những vấn đềkhác được đề cập trong sách này, sự thông thái được trau dồi bằng những kỹthuật "thiền định phân giải" và kỹ thuật "thiền định cốđịnh" . Tuy nhiên, trong trường hợp này, nhằm nâng cao nhận thức hiểu biếtvề "sự trống rỗng", bạn không luân phiên 2 kỹ thuật này, mà thực rathì bạn kết hợp chúng. Bạn tập trung tâm trí mình vào việc phân tích "sựtrống rỗng" bằng phương pháp "tập trung vào một điểm duy nhất".Điều này được gọi là sự hợp nhất của duy trì điềm tĩnh và sự hiểu biết sâu sắcđặc biệt. Bằng cách liên tục thiền định theo cách này, sự hiểu biết của bạnbiến thành nhận thức thật sự về "sự trống rỗng". Ở điểm này, bạn đạttới "giai đoạn chuẩn bị".

Nhận thức của bạn chỉ làkhái quát, vì nhận thức của bạn về "sự trống rỗng’’ đã được xuất phát từnhững suy luận hợp lý. Tuy nhiên, điều này trang bị cho người thiền định để họcó thể đạt được những nhận thức đúng đắn về "sự trống rỗng".

Lúc này, người thiềnđịnh liên tục trau dồi và nâng cao nhận thức suy luận của mình về "sựtrống rỗng". Điều này dẫn đến việc đạt được "hướng nhìn nhận" .Bây giờ, người thiền định đó thấy được "sự trống rỗng" trực tiếp, rõràng như là họ gạch một đường thẳng lên tay của mình.

Bằng cách liên tục về"sự trống rỗng", người ta tiến tới "thiền định". Đến đây,không còn khía cạnh nào khác của cuộc hành trình tâm hồn cần thiết phải đượctrau dồi.

NHỮNG MỨC ĐỘ BỒ TÁT
(THE BODHISATTVALEVELS)

Một tín đồ Mahayana (một giáo phái của Phật giáo) bắt đầu quá trình trau dồi phát triển của họ quanhững giai đoạn dẫn tới Cõi Phật ở một mức độ phát sinh tấm lòng Bồ Tát. Là mộtngười luyện tập, chúng ta nên phát triển mọi phẩm chất khác nhau đã được trìnhbày trong cuốn sách này. Khi có được hiểu biết thật sự về luật nhân quả, chúngta phải loại bỏ những hành vi gây hại cho bản thân và cho mọi người. Chúng taphải nhận thức được rằng cuộc sống là một chuổi dài đau khổ. Chúng ta phải cókhát vọng vượt qua những đau khổ đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải có khát vọngtừ bi giúp làm nhẹ bớt những đau khổ tràn lan của mọi người, những đau khổ đógiăng bẫy làm cho mọi người sa chân vào vũng bùn lầy lội của vòng luẩn quẩn.Chúng ta phải có được lòng yêu thương - tử tế lòng mong ước đem đến cho mọingười niềm hạnh phúc vô bờ bến. Chúng ta phải cảm nhận được trách nhiệm củamình là phải đạt tới sự giác ngộ cuối cùng.

Ở mức độ giác ngộ này,người ta đạt tới "sự tích lũy". Cùng với những động cơ thúc đẩy củatrạng thái bồ tát, người ta liên kết được "đức trầm tĩnh" và nhữnghiểu biết đặc biệt của mình, bằng cách đó người ta có được những nhận thức về"sự trống rỗng" đã được mô tả bên trên. Đến lúc này người ta đạt được"sự chuẩn bị". Trong suốt "sự tích lũy" và "sự chuẩnbị", vị Bồ Tát băng qua một khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập,nhờ đó mà vị Bồ Tát tích lũy được vô số tài năng và đ?ng thời mở rộng, nâng caosự thông suốt của mình.

Khi nhận thức về"sự trống rỗng" của một người không còn ở mức độ suy luận nữa, ngườiđó đã đạt tới mức độ thứ nhất trong số 10 mức độ bồ tát dẫn đến Cõi Phật. Quaviệc suy niệm liên tục về "sự trống rỗng", người đó đã đạt tới mức độthứ hai dẫn đến Cõi Phật và đồng thời đạt được "sự thiền định". Theođà tiến triển, người đó vượt qua khoảng thời gian luyện tập vô tận thứ hai và đạtđược mức độ thứ ba, tích lũy vô số tài năng và sự thông suốt.

Liên tục duy trì ba mứcđộ bố tát này, người đó vượt qua khoảng thới gian tập luyện vô tận thứ ba vànhờ đó đạt được "sự nâng cao kiến thức".

Bây giờ, người đó đã làmột Đức Phật hoàn toàn giác ngộ.

Vậy thì phía trước vẫncòn nhiều khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập nữa. Chúng ta phải kiêntrì. Chúng ta phải tiến lên từng bước một, liên tục trau dồi luyện tập. Chúngta cũng phải giúp mọi người luyện tập đạt tới mức độ như chúng ta và ngăn mìnhkhông gây hại cho mọi người. Khi lòng ích kỹ của chúng ta giảm dần và lòng vịtha của chúng ta tăng lên, chúng ta trở nên hạnh phúc hơn, mọi người xung quanhcũng hạnh phúc hơn. Đây là một cách để chúng ta tích lũy được những tài năng vàđức hạnh cần thiết nhằm đạt tới cõi Phật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2016(Xem: 29408)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 8814)
Ngày cô gái chuẩn bị về nhà chồng, cô đến đảnh lễ Phật và xin đôi lời dạy bảo. Phật nói cô giữ gìn 2 điều: Một là, đừng mang lửa từ nhà ra ngoài và cũng đừng mang lửa từ ngoài vào nhà. Hai là phải luôn soi gương. Cô gái không hiểu, xin Phật dạy rõ.
18/12/2016(Xem: 6723)
Như thông lệ hằng năm, giữa tháng 12 là lúc thời điểm Pháp hội Puja of Merit Accumulation khai hội tu tập & cầu nguyện cho'' Thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc'' tại Bồ Đề Đạo Tràng. Nhân cơ duyên này, chúng tôi đã được quí vị pháp hữu, thiện hữu phát tâm cúng dường gieo duyên cùng Pháp hội và chư Đại tăng trong thời gian 1 tuẫn lễ pháp hội diễn ra. (Dec 15 to Dec 22-2016)
14/12/2016(Xem: 13972)
Bước vào thiên niên kỷ mới, trong mười năm của giai đoạn đầu tiên (2006-2016), Phật giáo đã khai dụng được nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối diện với lắm thách thức giữa một thế giới đầy biến động. ● Xin nhận diện một số cơ hội: Xu thế mà người dân trong hai lục địa Âu và Mỹ đón nhận Phật giáo vừa như một triết lý sống nhân bản, vừa như một khoa học trị liệu hiệu quả đã bước qua khỏi giai đoạn nghiên cứu kinh viện để lan tỏa ra trong nhiều lãnh vực ứng dụng thiết thực khác của đời sống. – Hiện tượng những tổ chức Phật giáo quốc gia đơn lẽ đang nhịp nhàng gia nhập vào các mạng lưới Phật giáo quốc tế đã trở nên chặt chẻ hơn. – Những công trình nghiên cứu và khảo sát kinh điển Phật pháp càng lúc càng nhiều và càng có phẩm chất nhờ ứng dụng công nghệ thông tin khi xử lý các văn bản. – Nghệ thuật và văn học Phật giáo được giới trí thức trên thế giới khám phá và xác nhận như một dòng chủ lưu đóng góp vào những giá trị nhân văn của nhân loại – …
12/12/2016(Xem: 7639)
Thưa bà, lâu nay ít thấy bà “xuất hiện” trên mặt báo, phải chăng bà đang có dự án mới? Tạ Thị Ngọc Thảo (TTNT): Đúng, hơn nửa năm nay tôi ít “xuất hiện” trên mặt báo là vì những đề tài tôi quan tâm, nghiên cứu và viết ra đã gởi thẳng đến “địa chỉ” nơi nhận. Và tôi cũng nhận được phản hồi tích cực, vì nơi gởi và nơi nhận cùng trăn trở một mối lo “sau khi du lịch biển và đánh bắt không còn là thế mạnh thì làm sao để chuyển đổi ngành nghề cho bà con các tỉnh miền Trung”? Rồi hai bên cùng bàn cách “làm như thế nào!”. Chúng ta đều biết, có những việc nhờ báo chí đưa duyên, nhưng có những việc làm trước nói sau; cho chắc (cười).
09/12/2016(Xem: 7676)
Các thiền sư Phật giáo luôn nhắc nhở các đệ tử không được phát khởi vọng niệm ham muốn (tham), cho dù đó là “ham muốn được thành Phật”; không được phát khởi vọng niệm sân hận, cho dù đó là “sân hận người đã giết cha của mình”; không được phát khởi vọng niệm si mê (si), tin tưởng một cách mù quáng, cho dù đó là “tin tưởng vị thầy của mình”. Thamsân-si là ba chất độc gây đau khổ cho bản thân của chính mình và cho người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, người Phật tử cũng còn phải thực tập để làm ngược trở lại những tiến trình của “tham-sân-si”. Thí dụ: Muốn tránh tánh tham lam (lấy vào), thì phải thực tập bố thí (cho ra); Muốn tránh “thù hận”, thì phải thực tập “hiểu và thương” bằng việc làm từ thiện; muốn tránh “si mê”, thì phải thực tập hơi thở chánh niệm, ý thức về lời nó
09/12/2016(Xem: 7306)
"Hoằng pháp thị gia vụ" đó là câu nằm lòng cho những trưởng tử Như Lai, khi bước chân vào đời. Mọi việc qua bốn oai nghi đều mang trọng trách: "Tác Như Lai sứ". Và khi hành động bất cứ việc gì cũng đều là việc Phật: "Hành Như Lai sự". Qua 35 năm thành hình một tổ chức Phật giáo thống nhất ba miền với các hệ phái, Phật sự từ đó cũng được đáp ứng tùy từng giai đoạn. Mỗi hệ phái, tông phong cũng được duy trì và phát triển chung với sự phát triển của Giáo Hội.
03/12/2016(Xem: 6019)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêmtại đảo quốc xinh đẹp này. Và cũng kỳ lạ, Omar Perez, một nhà thơ và là một nhạc sĩ nổi tiếng ở Cuba – con trai của lãnh tụ du kích Che Guevara – đã trở thành một tu sĩ Thiền Tông.
03/12/2016(Xem: 6629)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng những nạn nhân từ các thảm họa của thiên nhiên, hoặc của con người gây nên. Có ai đã được gì sau chiến tranh và thiên tai? Có ai được hả hê sung sướng trên những bệnh tật, đói lạnh, xác người chết cứng, và nước mắt khổ đau của những kẻ sống còn sau một cơn hồng thủy, động đất, giông bão… hay sau một vụ oanh kích, nổ bom tự sát…?
09/11/2016(Xem: 11389)
Bài viết này [“Biểu nhất lảm Tam Tạng Kinh Điển Phật giáo” (An Overview of the Buddhist Tripataka)] nhằm cung cấp một cái nhìn duyệt qua kho tàng Kinh điển Phật giáo từ ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni [khoảng 560 – 480 trước Công Nguyên (tr. CN)] còn tại thế cho đến ngày nay. Đạo Phật đã có một lịch sử trên 2.500 năm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]