Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương IX: Rèn Luyện Đức Trầm Tĩnh

08/12/201016:51(Xem: 11005)
Chương IX: Rèn Luyện Đức Trầm Tĩnh

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG IX
RÈN LUYỆN ĐỨC TRẦM TĨNH
(CULTIVATINGEQUANIMITY)

Để thật sự cảm thấy độnglòng thương xót đối với mọi người, chúng ta phải xóa bỏ được sự thiên vị trongthái độ của chúng ta. Thái độ bình thường của chúng ta bị tác động ảnh hưởngbởi những cảm xúc biệt đải và luôn dao động. Chúng ta có cảm giác gần gũi dànhcho người mà chúng ta yêu thương , đối với những người lạ chúng ta cảm thấy xacách và lạnh nhạt. Và đối với những ai chúng ta căm ghét thì chúng ta có tháiđộ ác cảm và khinh miệt. Tiêu chuẩn mà chúng ta phân loại mọi người thành kẻthù hay bạn bè rất rõ ràng. Nếu một người gần gũi với ta hoặc tốt bụng tử tếvới ta, người đó là bạn của ta. Nếu một người gây hại hay gây khó khăn cho ta,người đó là kẻ thù của ta. Kèm với sự ưa thích mà chúng ta dành cho những ngườithân thương của chúng ta là những cảm xúc như lòng lưu luyến và sự khao khátđược gần gũi yêu thương.

Tương tự, chúng ta nghĩvề những người mà chúng ta không thích với những cảm xúc tiêu cực như: tức giậnvà căm thù. Do đó lòng từ bi của chúng ta dành cho mọi người luôn có giới hạn,thiên vị,thành kiến và được quyết định bởi một điều là liệu chúng ta cảm thấygần gũi với họ hay không.

Lòng từ bi chân thậtphải là "vô điều kiện", chúng ta phải trau dồi đức trầm tĩnh để vượtqua được những cảm xúc thiên vị và phân biệt. Một cách để trau dồi đức trầmtĩnh là chúng ta phải suy ngẫm về tính không chắc chắn của tình bạn. Đ ầu tiên,chúng ta phải cân nhắc nhận ra được rằng không có sự đảm bảo nào rằng người bạnthân của chúng ta hôm nay sẽ mãi mãi là bạn thân của chúng ta. Tương tự, chúngcó thể hình dung rằng sự "không ưa thích" của chúng ta dành cho mộtngười nào đó sẽ không nhất thiết phải tồn tại mãi mãi. Những suy nghĩ như vậykhuếch tán những cảm xúc mạnh mẽ của sự thiên vị và phân biệt của chúng ta, làmsuy yếu tính bất biến của tình cảm lưu luyến trong chúng ta.

Chúng ta cũng có thể suyniệm về những hậu qủa tiêu cực của lòng lưu luyến mà chúng ta dành cho bạn bèvà thái độ thù địch mà chúng ta đối với kẻ thù. Những cảm giác của chúng ta đốivới bạn bè và người yêu đôi khi làm cho chúng tamù quáng. Chúng ta phóng đạinhững phẩm chất mà mình khao khát nơi người đó. Chúng ta tin chắc là mình khônghề sai lầm. Sau đó, khi chúng ta nhận thấy sự việc không đúng với những gì màchúng ta phóng đại, chúng ta kinh ngạc, chúng ta choáng váng. Chúng ta rớt từđỉnh cao tột cùng của tình yêu và mơ ước xuống sự thất vọng, chán ghét và thậmchí là tức giận. Trong một số trường hợp, cảm giác hài lòng và thỏa mản trongmối quan hệ với một người nào đó mà chúng ta yêu thương có thể trở thành sựthất vọng và căm thù. Những người có tình yêu lãng mạn và lòng căm thù chínhtrực thường bị lôi cuốn bởi những cảm xúc này, niềm vui của họ chỉ là thoángqua. Theo quan điểm Phật giáo, tốt hơn hết chúng ta nên tránh sự lôi cuốn củanhững cảm xúc như vậy ngay từ lúc đầu.

Những ảnh hưởng khi bịchế ngự bởi lòng căm thù là gì? Người Tây Tạng cho rằng lòng căm thù,"Shedang", là thái độ chống đối thù địch từ sâu thẳm trong lòng. Cómột điều gì không ổn khi chúng ta phản ứng lại những điều bất công và những tổnthương bằng lòng thù địch. Lòng căm thù của chúng ta chẳng gây ảnh hưởng nảolên kẻ thù của chúng ta cả; nó không gây tác hại cho họ. Đúng hơn, chính chúngta phải chịu những hậu quả xấu và sự đau đớn do lòng căm thù của chúng ta gâyra. Nó gặm nhấm chúng ta từ bên trong. Khi tức giận, chúng ta ăn không ngonmiệng, chúng ta không thể ngủ ngon, chúng ta chỉ trở mình qua lại mà không thểchợp mắt được. Nó ảnh hưởng đến chúng ta mạnh mẽ, trong khi đó kẻ thù của chúngta vẫn tiếp tục sống hạnh phúc vui vẽ không hề biết tới những gì mà chúng tađang gánh chịu.

Thoát khỏi lòng tức giậncăm thù, chúng ta có thể xử lý mọi tình huống bằng những phản ứng sáng suốt vàcó hiệu quả hơn nhiều. Nếu chúng ta tiếp cận mọi vấn đề với một tâm trí điềmtĩnh, chúng ta sẽ nhìn nhận, quan sát mọi vấn đề một cách rõ ràng hơn và từ đóquyết định phương pháp tốt nhất để xử lý vấn đề. Ví dụ, nếu một đứa bé đang làmmột điều gì đó gây nguy hiểm cho chính nó và cho mọi người, như là chơi vớinhững que diêm, chúng ta có thể trừng phạt nó. Khi chúng ta đối xử một cáchthẳng thắng như vậy, một điều rất có khả năng xảy ra- đứa bé sẽ không đáp ứngsự tức giận của chúng ta mà là đáp ứng thái độ khẩn cấp và lo ngại của chúngta.

Đây là cách để chúng tanhận ra rằng kẻ thù của chúng ta thật ra là sự căm thù ở trong lòng chúng ta.Đó là tính ích kỹ, lòng lưu luyến và sự tức giận của chúng ta. Khả năng kẻ thùcủa chúng ta gây hại cho chúng ta rất hạn hẹp, trong khi đó thì nhũng cảm xúcích kỹ, lòng lưu luyến và sự tức giận lại gây hại trực tiếp cho chúng ta. Nếumột người nào đó thách thức, kích động chúng ta, chúng ta nên suy ngẫm về bảnchất của lòng căm thù, tức giận và kềm chế bản thân mình không trả đủa lại. Mộtđiều khá rõ ràng là cho dù người đó có làm gì đi nữa thì khả năng mà những hànhđộng của người đó gây hại cho chúng ta hầu như không đáng kể. Mặt khác, khinhững cảm xúc mạnh mẽ như cực kỳ tức giận, căm thù hoặc ham muốn xuất hiện,chúng tạo ra sự bối rối trong tâm hồn chúng ta. Ngay lập tức, chúng phá hoại sựyên tĩnh trong tâm hồn chúng ta và tạo cơ hội cho buồn phiền và đau khổ pháhoại việc luyện tập tâm hồn của chúng ta.

Khi chúng ta rèn luyệntính trầm tĩnh bình thản, chúng ta có thể nhận thức được rằng những khái niệmvề "kẻ thù"và "bạn bè" có thể thay đổi được và phụ thuộcvào nhiều nhân tố khác. Không có ai vừa được sinh ra đã là bạn bè hay kẻ thùcủa chúng ta và cũng không có một đảm bảo nào cho rằng những người bạn củachúng ta sẽ mãi mãi là bạn của chúng ta. "Bạn bè" và "kẻthù" được phân chia tuỳ thuộc vào thái độ cư xử của họ đối với chúng ta.Những người mà chúng ta tin rằng họ yêu thương, quan tâm chăm sóc chúng ta,chúng ta thường xem họ như là những người bạn và người thân của mình. Nhữngngười mà chúng ta tin rằng họ có những ý định xấu và những mục đích có hại chochúng ta, chúng ta xem họ như là kẻ thù của mình. Chúng ta xem mọi người là bạnbè hay kẻ thù đều dựa vào tri giác về những suy nghĩ và cảm xúc mà họ dành chochúng ta. Vậy thì, không có ai thật sự là bạn bè của chúng ta mà cũng không cóai thật sự là kẻ thù của chúng ta.

Chúng ta thường nhầm lẫngiữa hành vi của một người và con người thật của người đó. Thói quen này làmcho chúng ta quyết định rằng bởi vì một hành vi nào đó hoặc lời nói nào đó,người đó là kẻ thù của chúng ta. Tuy nhiên, thực ra người đó không phải là bạnmà cũng không phải là thù, không phải là Đức Phật cũng không phải là Đức Chúa,không phải là người Trung Hoa cũng không phải là người Tây Tạng. Trong nhiềutrường hợp, cũng người đo,ù nếu chúng ta tiếp xúc lâu dài thì lại trở thành bạnthân của chúng ta. Chẳng có gì lạ khi chúng ta suy nghĩ: "Ồ! Bạn đã từng làkẻ thù của ta trong quá khứ, còn hiện tại chúng ta là những người bạn tốt củanhau!".

Một cách khác để rènluyện đức trầm tĩnh và vượt qua cảm xúc thiên vị và phân biệt là chúng ta suyniệm rằng mọi người đều bình đẳng như nhau, đều khao khát được hạnh phúc vàvượt qua đau khổ. Ngoài ra, tất cả chúng ta đều cảm thấy rằng nình có quyềnthoả mãn khát vọng này. Chúng ta biện hộ cho đều này theo cách nào? Rất đơngiản! Nó là một phần trong bản chất thật sự của con người. Tôi không phải làngười "duy nhất". Tôi không có một đặc quyền nào cả. Bạn cũng khôngphải là người "duy nhất". Bạn cũng không có một đặc quyền nào cả.Khao khát của tôi muốn được hạnh phúc và vượt qua đau khổ là một phần trong bảntính của tôi, đó cũng là một phần trong bản tính của bạn. Vậy thì tất cả mọingười đều có quyền được hưởng hạnh phúc và vượt qua đau khổ, đơn giản là vì mọingười có chung bản tính cơ bản này. Dựa trên nền tảng của sự bình đẳng này,chúng ta phát huy đức thư thái trâm tĩnh đối với mọi người. Khi chúng ta thiềnđịnh, chúng ta phải cố g?ng trau dồi tư tưởng "Chính bản thân mình mongmuốn được hạnh phúc và vượt qua đau khổ, mọi người cũng vậy; chính bản thânmình bẩm sinh đã có quyền thoả mãn khát vọng này và mọi người cũng có".Chúng ta nên lặp đi lặp lại nhiều lần suy nghĩ này khi chúng ta thiền định vàcả trong đời sống hàng ngày cho tới khi nó thấm nhuần vào tâm hồn chúng ta.

Còn có một điều quantrọng nữa là đời sống của chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào đời sống của mọingười. Chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự đóng góp của nhiều, rấtnhiều sự tồn tại khác. Sự ra đời của chúng ta phụ thuộc vào cha mẹ chúng ta.Sau đó chúng ta cần được sự chăm sóc và tác động của cha mẹ chúng ta trongnhiều năm. Cách sinh nhai của chúng ta, nơi trú ngụ của chúng ta, phương tiệnsinh sống của chúng ta, thậm chí sự thành công và danh tiếng của chúng ta làkết quả của sự chung sức của cha mẹ chúng ta và vô số người khác. Hoặc trựctiếp, hoặc giáng tiếp, vô số người khác có liên quan đến sự tồn tại của chúngta – đó là chưa kể đến hạnh phúc của chúng ta.

Nếu chúng ta mở rộng lốisuy luận như vậy trong phạm vi một đời người, chúng ta có thể hình dung ra rằngxuyên suốt những kiếp trước của chúng ta – thật ra là kể từ lúc khai thiên lậpđịa – vô số người đã đóng góp vô số kể vào đời sống của chúng ta. Chúng ta cóthể tự hỏi và kết luận: "Mình dựa vào đâu để mà đối xử phân biệt? Cớ saomình lại có thể đối xử thânthiện với một số người và đối xử thù địch với một sốngười khác? Mình phải vượt qua mọi cảm xúc phân biệt và thiên vị. Mình phảigiúp ích cho mọi người như nhau".

THIỀN ĐỊNH VỀ ĐỨC TRẦM TĨNH
(MEDITATION FOREQUANIMITY)

Chúng ta rèn luyện tâmhồn để nhận thức được sự bình đẳng thiết yếu của mọi đòi sống bằng cách nàođây? Tốt nhất chúng ta nên trau dồi suy nghĩ về sự trầm tĩnh bằng cách trướchết chúng ta tập trung vào những người bà con lạ mặt và những người quen biết,đối với những người này bạn hoàn toàn không có những cảm xúc mạnh mẽ. Từ đó,bạn nên suy niệm một cách vô tư, bạn tiếp tục suy niệm về bạn bè rối đến kẻthù. Khi có được thái đ? vô tư không thiên vị đối với mọi người, bạn nên thiềnđịnh về lòng yêu thương, về mong ước rằng mọi người sẽ tìm được hạnh phúc mà họđang kiếm tìm.

Hạt giống của lòng từ bisẽ lớn lên nếu bạn gieo nó trên một mảnh đất màu mỡ, một tâm hồn thấm nhuầnlòng yêu thương. Khi bạn "tưới" lòng yêu thương vào tâm hồn mình, bạncó thể bắt đầu thiền định về lòng từ bi. Lòng từ bi, ở đây, đơn giản là mongước mọi người vượt qua được mọi đau khổ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 4816)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Bảy (June 12) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Durgagar và Armoba Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 358 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 9 cây số.
03/07/2021(Xem: 6167)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê, Ngài giữ trong tim một bộ kinh biểu tượng của việc thấy tất cả mọi thứ như chúng là, Người dạy trong sáu mươi cách, với lòng từ bi yêu thương của một từ thân với đứa con duy nhất, Đến tất cả các tạo vật bị giam trong tù ngục của luân hồi, Bối rối trong bóng tối của si mê, tràn ngập bởi khổ đau của họ.
03/07/2021(Xem: 16864)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3996)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6487)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6662)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4254)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8719)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5905)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 16202)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]