Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VI: Bao La Và Sâu Sắc: Hai Hướng Của Con Đường

08/12/201016:48(Xem: 10611)
Chương VI: Bao La Và Sâu Sắc: Hai Hướng Của Con Đường

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNGVI
BAO LA VÀ SÂU SẮC: HAI HƯỚNG CỦA CON ĐƯỜNG
(THE VAST AND THEPROFOUND : TWO ASPECTS OF THE PATH)

Trên con đường hướng đếnPhật giáo, có 2 hướng đi phản ánh rõ rệt 2 phương pháp tập luyện. Mặc dù Đ ứcPhật đã gộp thành một phương pháp, những bậc thầy vẫn truyền dạy cho học tròtheo 2 phương pháp. Tuy nhiên, giống như 2 cánh của một con chim, chúng đều cầnthiết khi chúng ta tiến hành cuộc hành trình tìm kiếm sự giác ngộ – trạng thái khôngbị ràng buộc bởi những đau khổ hoặc trạng thạng thái thông suốt hoàn toàn vềCõi Phật(Buddhahood) mà chúng ta cố tìm kiếm nhằm giúp đỡ mọi người.

Đ ến đây chúng ta tậptrung vào "sự bao la". Việc luyện tập này được xem như là một phươngpháp nhằm mở rộng trái tim của chúng ta về lòng yêu thương và lòng từ bi, cùngnhững phẩm chất như lòng khoan dung tồn tại nơi một trái tim nhân hậu. Ở đây,việc luyện tập của chúng ta bao gồm việc phát huy những phẩm chất đạo đức vàhạn chế những khuynh hướng phi đạo đức.

Mở rộng trái tim cónghĩa là sao? Trước hết, chúng ta hiểu rằng hình tượng "trái tim" ởđây là một hình tượng ẩn dụ. Trong hầu hết mọi nền văn hóa, "tráitim" được xem như là nơi chứa đựng lòng từ bi trắc ẩn, lòng yêu thương,lòng thương cảm, sự hiểu biết và tính ngay thẳng, chứ không đơn thuần chỉ làmột bộ phận cơ bắp có chức năng tuần hoàn máu trong cơ thể. Theo quan điểm Phậtgiáo, cả 2 phương pháp này đều diển ra trong tâm hồn. Thật là buồn cười , theoquan điểm Phật giáo thì tâm hồn nằm nơi giữa ngực. Một trái tim rộng mở là mộttâm hồn rộng mở. Một sự thay đổi nơi trái tim là một sự thay đổi nơi tâm hồn.Hơn nữa, trong nhất thời, khái niệm của chúng ta về "trái tim" tạo ranhững lợi khí hữu ích để cố gắng thông hiểu sự khác biệt giữa sự "sự bao la"và "sự sâu sắc" của việc luyện tập.

Một khía cạnh khác củaviệc luyện tập là "sự thông suốt" (wisdom), cũng được biết đến như"sự sâu sắc". Ở đây, chúng ta đang tập trung vào "đầu", nơimà mọi sự hiểu biết, phân tích và nhận thức đều hiện diện. Xét khía cạnh"thông suốt" của việc luyện tập, chúng ta luyện tập nhằm nâng cao sựhiểu biết về tính tạm thời, điều bất hạnh của cuộc sống này, và lòng vị tha.Những ai muốn có được sự thông suốt sâu sắc này có lẻ sẽ phải hy sinh cả đời đểmà luyện tập. Tuy nhiên, chỉ cần nhận thức được tính tạm thời của mọi sự vật,chúng ta có thể có được sự thông suốt về chúng và mọi khái niệm về tính lâubền. Khi chúng ta thiếu sự hiểu biết về bản chất đau khổ của cuộc đời này, lònglưu luyến của chúng ta đối với cuộc đời này sẽ gia tăng.

Nếu chúng ta trau dồihiểu biết của mình về bản chất đau khổ của cuộc đời này, chúng ta sẽ chiếnthắng lòng lưu luyến đó.

Chủ yếu mọi khó khăn củachúng ta đều xuất phát từ ảo tưởng cơ bản này. Chúng ta tin vào sự tồn tại cốhữu của chúng ta và của mọi sự vật hiện tượng khác. Chúng ta đề ra và bám vào,những quan niệm về bản chất của mọi sự vật hiện tượng mà ở đó những điều phithường hoàn toàn không xảy ra. Chúng ta hãy lấy một cái ghế làm ví dụ, chúng tatin, mà không nhìn nhận đầy đủ niềm tin này, rằng có một vật được gọi là"ghế",phẩm chất gía trị của một cái ghế dường như tồn tại bên trongnhững bộ phận của nó: chân, chỗ ngồi và chỗ dựa. Cũng giống như vậy, mỗi ngườitrong chúng ta đều tin rằng có một cái "tôi" bền bỉ thiết yếu lan tỏatrong khắp tâm hồn và thể xác của chúng ta để cấu thành chúng ta. Phẩm chất bềnbỉ thiết yếu này là do chúng ta gán cho nó; nó thật sự không tồn tại.

Tin vào sự tồn tại cốhữu này là một tri giác sai lầm cơ bản mà chúng ta phải loại trừ khỏi việc tậpluyện thiền định theo hướng thông suốt (wisdom). Tại sao? Bởi vì nó là cănnguyên của mọi đau khổ. Nó là cốt lõi của mọi cảm xúc đau khổ.

Chúng ta chỉ có thể loạibỏ được ảo tưởng sai lệch về bản thân và mọi sự vật này bằng cách sáng suốttrau dồi những tư tưởng đối kháng với ảo tưởng đó, nhận ra sự không tồn tại củaphẩm chất bền bỉ thiết yếu đó. Một lần nữa, chúng ta trau dồi những tư tưởngđối kháng giống như khi chúng ta phát huy lòng khiêm tốn để trừ khử tính kiêucăng của mình. Đầu tiên, chúng ta quen với những nhận thức sai lệch về bảnthân, những nhận thức sai lệch về những điều phi thường tồn tại nơi bản thânchúng ta; sau đó, ta phát huy một tri giác đúng đắn hơn về bản thân và mọi sựvật xung quanh. Dần dần, tri giác này sẽ thấm vào tâm hồn chúng ta giống nhưnhững kiến thức dần dần thấm vào tâm trí của một người nghiên cứu học hỏi nhữnglời truyền dạy. Để tăng thêm sức mạnh của tri giác này, đòi hỏi sự luyện tậpbền bỉ được trình bày ở những chương sau. Chỉ khi chúng ta luyện tập bền bỉ nhưvậy, tri giác này mới có thể thật sự gây tác động đến quan điểm của chúng ta vềbản thân và mọi sự vật sự việc. Bằng cách nhận thức ra được một điều rằng đờisống này chỉ là tạm bợ, chúng ta tiệt trừ được tính ích kỷ cá nhân gây ra mọiđiều đau khổ.

Phát triển "sựthông suốt" là một quá trình làm cho chúng ta suy nghĩ đúng đắn theo đúngbản chất của mọi đối tượng. Qua quá trình này, chúng ta dần dần khai trừ nhữngtri giác sai lầm về thực tế mà chúng ta đã bám vào bao lâu nay. Điều này khôngphải dễ dàng. Để hiểu được "sự tồn tại thực chất của mọi đối tượng",đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và suy xét rất nhiều. Để nhận ra được rằng mọisự vật đều không tồn tại cố hữu- đó là một hiểu biết sâu sắc- đòi hỏi chúng taphải nhiều năm suy ngẫm và thiền định. Chúng ta nên bắt đầu hòa mình vào nhữngquan điểm này, phần sau của quyển sách này chúng ta sẽ tìm hiểu thêm. Tuynhiên, tiếp ngay đây chúng ta hãy quay lại với phương pháp khảo sát ý niệm vềlòng từ bi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/12/2022(Xem: 3065)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 3229)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 6904)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 4232)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 2723)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 4783)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 6948)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 4053)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
20/09/2022(Xem: 7828)
Kinh Tiểu Bộ Diễn Nghĩa Kệ Bāhiya Sutta (Thể song thất lục song bát) * Lê Huy Trứ
20/09/2022(Xem: 3647)
"Bài kinh giảng cho Girimānanda" / Girimānanda Sutta (AN 10.60) là một bài kinh ngắn nhưng thuyết giảng về một phép luyện tập thiền định thật quan trọng, thiết thực và cụ thể, giúp người đau ốm mượn hơi thở để trở về với chính mình, làm lắng dịu các sự đau đớn trên thân thể và mọi lo lắng trong tâm thần. Ở các cấp bậc lắng sâu hơn, phép luyện tập này cũng có thể làm cho căn bệnh hoàn toàn chấm dứt, mang lại một niềm hân hoan và thanh thoát thật sâu xa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]