Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lầu Hoàng Hạc

30/11/201017:10(Xem: 6571)
Lầu Hoàng Hạc


Hoang Phong
MỘT CÕI TỊNH ĐỘ
TRONG MỖI CHÚNG TA
Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

LẦUHOÀNG HẠC

hoang-hac-lau-04

ThôiHiệu (704-754), người Biện Châu, huyện Khai Phong, nay là mộtthành phố lớn thuộc tỉnh Hà Nam. Thôi Hiệu đi chơi tỉnhVũ Xương, trèo lên lầu Hoàng Hạc tức cảnh đề thơ. Bàithơ viết theo thể thất ngôn, lấy tựa là Lầu Hoàng Hạc,dịch âm như sau :

HoàngHạc Lâu

Tíchnhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thửđịa không dư Hoàng Hạc Lâu.

HoàngHạc nhất khứ bất phục phản,

Bạchvân thiên tái không du du.

Tìnhxuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phươngthảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhậtmộ hương quan hà xứ thị,

Yênba giang thượng sử nhân sầu.

ThôiHiệu (thế kỷ thứ 8)

Tạmdịch nghĩa như sau:

Ngườixưa đã cỡi hạc vàng bay xa,
Nơinày chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc,

Hoànghạc bay xa không trở lại,

Ngànnăm mây trắng vẫn trôi hoài.

Trờiquang nhìn thấy cả hàng cây ở tận bến Hán Dương.

Cỏthơm xanh rờn trên bãi sông Anh Vũ.

Chiềuxuống, chẳng biết quê nhà ở phương nao,

Khóisóng trên sông khiến cho ta buồn.

Đãtừng có không biết bao nhiêu thi nhân và những người yêuthơ cổ đã dịch bài thơ này, tôi chỉ xin chép ra đây mộtvài bài diễn nôm được nhiều người biết đến, chẳnghạn như của các cụ Tản Đà, Trần Trọng Kim, Khương HữuDụng.

GácHoàng Hạc


Hạcvàng ai cưỡi đi đâu ?

Màđây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ !

Hạcvàng đi mất từ xưa,

Nghìnnăm mây trắng bây giờ còn bay.

Hándương sông tạnh cây bày,

Bãixa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quêhương khuất bóng hoàng hôn,

Trênsông khói sóng cho buồn lòng ai ?

TảnĐà dịch

LầuHoàng Hạc

Ngườiđi cỡi hạc từ xưa,

Đấtnày Hoàng Hạc còn lưa một lầu,

Hạcvàng đi mất đã lâu,

Ngànnăm mây trắng một màu mênh mông.

HánDương cây bóng lòng sông,

Bãikia Anh vũ, cỏ trông xanh rì,

Chiềuhôm lai láng lòng quê,

Khóibay sóng vỗ, ủ ê nỗi sầu.

TrầnTrọng Kim dịch

LầuHoàng Hạc

Aicưỡi hạc vàng đi mất hút,

Trơlầu Hoàng Hạc chốn này thôi!

Hạcvàng một đã đi, đi biệt ?

Mâytrắng ngàn năm bay chơi vơi.

Sôngtạnh Hán Dương cây sáng ửng,

Cỏthơm Anh Vũ bãi xanh ngời,

Hoànghôn về đó, quê đâu tá?

Khóisóng trên sông não dạ người.

KhươngHữu Dụng dịch.

Theotôi bản dịch của cụ Tản Đà hay nhất, nhiều thi tính vàít gượng ép. Quả thật khó mà dịch nổi cách đối ngữvà đối ý trong bài thơ của Thôi Hiệu. Bài thơ của ThôiHiệu có tám câu, ý và chữ đều đối nhau từng cặp haicâu và hai chữ. Kỹ thuật đạt đến mức tuyệt đỉnh. Nhạctính của bài thơ thật phong phú. Ông mô tả thật tài tìnhnhững rung động của ông trước thiên nhiên, và những rungđộng đó đã khơi động trong ông một mối hoài cảm sâuxa. Nhìn khói sóng trên sông khi trời chiều buông xuống ôngbỗng nhớ đến quê nhà, một nơi nào đó vạn dặm xa xôi.Trong khung cảnh trời nước bao la, ông cảm thấy mình lẻloi và cô đơn như chiếc tháp cổ đứng trơ vơ bên bờ nướcTrường giang để hoài nhớ một vị tiên đã ra đi hơn mộtngàn năm trước.

Tôiđã có ý định thử dịch bài thơ này xem sao, nhưng sau khiđọc bản diễn nôm của cụ Tản Đà liền bỏ ngay cái ýđịnh điên rồ đó. Cụ Tản đã cản lối những ngườiđi sau mất rồi. Dịch thơ Đường thất ngôn bằng thể lụcbát là một việc táo bạo, tuy nhiên cụ đã thành công khôngchối cải được. Chỉ thấy hai chữ trong bản dịch củacụ có thể thay đổi được:

-Trong câu thứ ba, chữ "đi" có thể thay bằng chữ "bay", vìchim thì bay đúng hơn là đi.

-Trong câu cuối, chữ "ai", có thể thay bằng chữ "ta", vì chữ"ai" tuy nhẹ nhàng nhưng hời hợt và vô tình hơn chữ "ta",chữ "ta" có vẻ thầm kín và đậm đà hơn, trực tiếp khơilên nỗi buồn đang ray rứt trong lòng thi nhân.

Ngoàira Cụ Tản còn dịch tựa của bài thơ là Gác Hoàng Hạc,thiết nghĩ chữ Gác hơi "khiêm nhường" có thể làm mất đitầm "quan trọng" của một kiến trúc lịch sử trong một thắng cảnh lịch sử.

LầuHoàng Hạc là bài thơ mà nhiều người cho là hay nhất củaThôi Hiệu và bài thơ ấy cũng là một trong những bài thơthất ngôn nổi tiếng của cả thời Đường. Theo tích xưa,vào thế kỷ thứ VI trước tây lịch, có một vị tiên cỡimột con hạc vàng đến đáp ở bãi sông Trường Giang. Ngườisau xây một cái tháp tại nơi này để tưởng nhớ đến vịtiên ấy. Ngọn tháp bên bờ Trường giang về sau đã trởthành một danh lam. Sở dĩ nhiều người biết đến và nóiđến ngọn tháp này có lẽ là nhờ vào hai bài thơ, một củaThôi Hiệu là bài Hoàng Hạc Lâu trên đây và một bài kháccủa của Lý Bạch là bài Nơi lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh HạoNhiên đi Quảng Lăng.

ThôiHiệu sinh năm 704, Lý Bạch sinh năm 701, hai người trạc tuổinhau. Thôi Hiệu đề thơ ở lầu Hoàng Hạc trước nhất. Sauđó khi Lý Bạch đến chơi nơi này và nhìn thấy bài thơ củaThôi Hiệu thì liền phóng bút mà phê như sau:

Nhântiền hữu cảnh đạo bất đắc,
ThôiHiệu đề thi tại thượng đầu.


Haicâu này ngày nay thấy khắc bằng chữ thật lớn thếp vàngtrên một phiến đá thật to cạnh bên lầu Hoàng Hạc, chữvà mặt đá còn mới, chắc chắn không phải bút tích củaLý Bạch. Xin tạm dịch nghĩa hai câu ấy như sau:

Thấycảnh đẹp trước mắt chưa tìm ra lời,
Đãthấy thơ của Thôi Hiệu đề trên đỉnh đầu.

Khennhau đến như thế thì quả thật là siêu phàm, không mấyai làm được và viết được. Tuy khen nhưng biết đâu tronglòng cũng tức nhau một tiếng gáy, vì sau này Lý Bạch cũngcó làm một bài thơ về lầu Hoàng Hạc, viết theo thể thấtngôn tuyệt cú. Bài thơ cũng nổi tiếng không kém bài HoàngHạc Lâu của thôi Hiệu. Bài thơ của Lý Bạch như sau:

HoàngHạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng

Cốnhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yênhoa tam nguyệt há Dương Châu.

Côphàm viễn ảnh bích sơn tận,

Duykiến trường Giang thiên tế lưu.

LýBạch

Tạmdịch nghĩa như sau:

Tiễnbạn từ biệt hướng tây nơi lầu Hoàng Hạc,
Thángba hoa khói, đi Dương Châu.

Cánhbuồm cô độc khuất xa trong vùng núi biếc,

Chỉthấy dòng Trường Giang chảy mãi tận chân trời.

Sauđây là hai bản diễn nôm của các cụ Ngô Tất Tố và TrầnTrọng Kim:

Tạilầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Bạntừ lầu Hạc lên đường
Giữamùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng

Bóngbuồm đã khuất bầu không

Trôngtheo chỉ thấy dòng sông bên trời


NgôTất Tố dịch

TiễnMạnh Hạo Nhiên ở Hoàng Hạc Lâu đi Quảng Lăng

Phíatây bạn biệt Hạc Lâu
Thángba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng.

Cánhbuồm bóng hút màu không,

Trôngxa trắng xóa nước sông bên trời.

TrầnTrọng Kim dịch

Bìnhluận và vạch cái "hay" của Đường thi thì vô tận, chưakể những thêu dệt quá lố của một số phê bình gia. Khôngbiết bao nhiêu sách Tàu và sách Ta nói đến thơ Đường. Ngaycả trong các sách Tây, có những tác giả chỉ cần nghiêncứu, giải thích và bình luận một bài thơ Đường duy nhấtcũng viết thành một quyển sách. Trước hết tôi xin tríchra đây vài chi tiết liên quan đến việc diễn nôm tìm thấytrong một ít sách Ta như sau:

Trongcâu thứ nhất của bài thơ có hai chữ khá khó hiểu là "tâytừ" (từ biệt hướng Tây), các phê bình gia và thinhân của Ta, trong số này có cụ Trần Trọng Kim đều hiểurằng "giã biệt ở hướng Tây lầu Hoàng Hạc".Riêng cụ Ngô Tất Tố thì không thấy nhắc đến hướng Tâytrong câu thơ dịch của cụ, tuy nhiên trong phần ghi chú thìcụ có giải thích rằng Mạnh Hạo Nhiên đi lên phía Tây.Nếu tra cứu kỹ hơn, như trong quyển "Đường thi tam báchthủ" của Lưu Đại Trừng (do một người bạn gốc Hoa thuậtlại cho tôi) thì diễn nghĩa của câu một phải là "Bạncũ đi về hướng Đông, từ biệt nhau ở bên lầu Hoàng Hạc",có lẽ như thế hợp lý hơn vì Mạnh Hạo Nhiên từ biệtphía Tây đi về hướng Đông tức là Dương Châu. Trong mộtcâu thơ cô đọng như thơ Đường mà có đến hai túc từxác định cùng một nơi chốn, vừa chỉ định Lầu HoàngHạc lại còn xác định thêm ở phía Tây của lầu Hoàng Hạc,như thế có lẽ dư. Chẳng lẽ Lý Bạch lại không nhận thấyđiều ấy hay sao ? Mặt khác, ta biết rằng Quảng Lăng vàDương Châu là một, tức ở vào hướng Đông, thuộc tỉnhGiang Tô ngày nay. Mạnh Hạo Nhiên từ biệt hướng Tây đivề hướng Đông. Thơ Đường quả thật tinh vi và bí hiểm,tính cách bí hiểm chẳng qua vì bài thơ quá cô đọng và cáccâu thơ thì lại quá ngắn và ít chữ.

MạnhHạo Nhiên (689-740) là người Tương Dương, tánh tình phóngkhoáng, không màng danh lợi, ẩn cư đọc sách ở núi LộcMôn, cỡi lừa ngao du sơn thủy, nhất định không đi thi. Năm35 tuổi, xuôi dòng Trường Giang đi về phía Đông du ngoạnvùng Chiết Giang, đến năm 39 tuổi mới quay về Tương Dương.Năm 40 tuổi ông lên Tràng An và tại chốn kinh đô tài thiphú của ông đã làm chấn động cả giới thi nhân thời bấygiờ. Theo quyển sách của Cheng W.F. và Collet H. tựa là"Lý Bạch, vị tiên bị đày xuống hạ giới uống rượumột mình dưới trăng" (Li Po l’immortel banni buvant seul sousla lune, nhà xuất bản Moundarren, ấn bản lần thứ tư, 1990)thì Lý Bạch làm bạn với Mạnh Hạo Nhiên lúc ông mới 28tuổi, Mạnh Hạo Nhiên lúc ấy đã 40. Có lẽ hai người gặpnhau ở kinh đô Tràng An. Vậy thì họ từ biệt nhau ở lầuHoàng Hạc vào thời điểm nào, và Lý Bạch làm bài thơ tiễnMạnh Hạo Nhiên vào năm nào ? Có lẽ vào những năm hai ngườimới quen nhau và cùng du ngoạn ở vùng Ba Hẻm Vực trên sôngTrường Giang và sau đó thì từ biệt nhau bên Lầu Hoàng Hạc?

Trongcâu thứ hai, chữ "yên hoa" (hoa khói)không ai biết đích xác là gì. Trong các bài thơ diễn nômcủa các cụ Trần Trọng Kim và Ngô Tất Tố, thì cụ Kim bỏlững không dịch hai chữ "yên hoa", cụ Tố thì dịch thẳnglà hoa khói. Có sách thì giải thích hoa khói là mưa bụi, tuyếtkhói lấm tấm như hoa v.v. và v.v. Tôi dốt đặc chữ Hán,chỉ biết dùng một chút xúc cảm của riêng mình để đưatôi đến gần với Lý Bạch mà thôi. Nếu đứng ở lầu HoàngHạc nhìn ra Trường Giang thì chỉ thấy có sóng và nước,nên tôi trộm nghĩ "yên hoa" ở đây là khói trên mặt sóng,hoặc khói sóng như hoa trên mặt nước tức là bọt sóng,như thế vừa phù hợp với cảnh vật và cả ý thơ : chữyên (khói) trong thơ Tàu thường đi đôi với cảnh sông nước,và con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên thì lướt trên hoasóng của Trường Giang để đi Dương Châu. Hai chữ"yên hoa" cũng gợi lại hình ảnh khói sóng trênsông trong bài thơ Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu.

Trongcâu ba thì hầu hết các sách Tàu và sách Ta đều giải thíchcác chữ "bích không tận" là "màu trời xanh vô tận" (cánhbuồm mất hút trong màu trời xanh vô tận). Riêng sách củaLưu Đại Trừng chép là "bích sơn tận", có lẽ tác giả dựavào những bài thơ ký sự của Lục Du (1125-1210) và cho rằngchữ sơn mới đúng là chữ mà Lý Bạch đã dùng. Dù sao thìchữ sơn cũng có vẻ hay hơn chữ không (cánh buồm xadần trong vùng núi biếc), và cũng tránh được sựlập đi lập lại với chữ "thiên tế" (chân trời) trong câubốn tiếp theo sau. Dầu sao thì cũng khó biết được chữnào mà Lý Bạch đã dùng, trừ trường hợp sau này ngườita khám phá được những di cảo thật xưa và đáng tin cậy.

Sauđây là bản dịch bài thơ của Thôi Hiệu sang Pháp văn tìmthấy trong quyển sách tiếng Pháp đã trích dẫn trên đây:

AuPavillon de la Grue jaune, adieu à Meng Hao Jan qui part à Kuan ling

Monvieil ami quitte l’ouest au Pavillon de la Grue jaune
Dansla splendeur des nuées de fleurs au trosième mois, il descend vers Yangchow

Lavoile solitaire, lointaine silhouette, dans l’azure disparaît

Onne voit plus que le Long Fleuve couler au bord du ciel.

ChengW.F. và Collet H., tháng 5, 1988 (Sách xuất bản lần thứ nhất)

Theobản dịch này ta thấy rõ là Mạnh Hạo Nhiên rời hướngTây nơi Lầu Hoàng Hạc và hoa khói có nghĩa là hoa xuântrong tháng ba.Tác giả còn thêm tĩnh từ rực rỡ (splendeur)để chỉ hoa khói(nuées de fleurs), tĩnh từ rựcrỡchẳng những đã không có trong câu thơ của LýBạch lại không phù hợp với ý và xúc cảm của toàn bàithơ, vả lại không hợp lý nữa vì thuyền của Mạnh HạoNhiên lướt đi trên mặt nước Trường Giang chứ không phảitrên hoa xuân rực rỡ. Câu ba không nhắc đến chữ "sơn" haychữ "không", chỉ nói là bóng con thuyền cô độc mất húttrong màu trời xanh. Hai tác giả Cheng và Collet có lẽ cũngkhông hiểu rõ bốn chữ yên hoa tam nguyệtnênđã dịch bốn chữ này là hoa xuân(hoa vào thángba), theo tôi thì tháng ba là một túc từ chỉ thời gian khôngliên hệ gì đến khói sóng trên mặt nước Trường giang.

Tôixin mạn phép góp thêm vài lời dịch vụng về như sau :

HoàngHạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng lăng

Tiễnbạn rời Tây lầu Hoàng Hạc,
Thángba hoa nước mờ chân sóng,

Xuôimái Dương Châu xa cố nhân.

Cánhbuồm hun hút vùng núi biếc,

TrườngGiang chảy mãi tận chân trời.

HoangPhong dịch tại Lầu Hoàng Hạc
Ngày09.09.2001

Bàithơ của Lý Bạch hết sức cô đọng, không thể dịch bằngcách tóm tắt trong bốn câu theo nguyên bản, vì thế tôi xinmạn phép dùng đến năm câu mới lột hết ý của bài thơ.Tôi không quan tâm đến thi luật mà chỉ cố gắng trình bàymột chút xúc cảm và nhạc tính cảm nhận được trong bàithơ của Lý Bạch mà thôi. Xin chân thành tạ lỗi với cụLý và những người đọc các dòng này.

LầuHoàng Hạc nguyên thủy được dựng lên trên một bãi sônggần núi Xà Sơn thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc, sau đượcdời đến gần đầu cầu Vũ Xương thành phố Vũ Hán. Câycầu Vũ Xương bắc ngang sông Trường Giang, khá đồ sộ dongười Nga xây giúp. Cầu có hai tầng, một tầng dành riêngcho xe lửa, một tầng cho xe ô-tô, các loại xe khác và ngườiđi bộ. Gần bên chiếc cầu là khách sạn Holiday Inn cao ngấtvà sang trọng, dành cho du khách đến xem lầu Hoàng Hạc. Phíasau khách sạn là bến đò dùng làm nơi đưa đón du khách ngượcsông Trường Giang đi vào vùng Ba Hẻm Vực. Quả thật ngườisau cũng biết chọn chỗ để làm ăn lắm, không biết họcó nghĩ đến công lao của Thôi Hiệu nặn óc để làm thơgiúp cho lầu Hoàng Hạc được nổi tiếng hay không ?

LầuHoàng Hạc chẳng những đã thay đổi vị trí mà còn đượcxây đi xây lại không biết bao nhiêu lần qua mười mấy thếkỷ nay rồi. Ngày xưa, lầu cất bằng cây nên thường bịcháy. Lầu mới ngày nay dùng thêm vật liệu cứng như gạchđá, và được xây dựng vào thời nhà Thanh, cách nay mộthay hai trăm năm là nhiều. Chiếc lầu mới có trang bị thêmcả thang máy cho du khách lớn tuổi hay những người lườitrèo cầu thang. Vé vào cửa có băng từ tính đọc bằng máyđể dễ kiểm soát từng chặng, giá 30 yuẩn (nhân dân tệ)tức độ chừng 28 quan Pháp. Nếu dùng thang máy đi lên thìdu khách phải trả thêm 2 yuẩn ; nếu dùng thang máy trở xuốngthì rẻ hơn, chỉ phải trả thêm 1 yuẩn thôi.

Mỗingày có hàng ngàn du khách từ xa đến viếng Lầu, vừa tốnkém cho họ lại vừa mất thì giờ chờ đợi vì quá đôngngười. Họ ồn ào, tấp nập, tuy nhiên họ vẫn kiên nhẫnxếp hàng mua vé và nối đuôi nhau chờ đến lượt lên lầu.Người xưa thì phải khổ sở xây đi xây lại không biếtbao nhiêu lần cái Lầu Hoàng Hạc, dời hết chỗ này đếnchỗ khác. Tất cả chẳng qua cũng vì một vài xúc cảm nhỏnhoi của thi nhân mà ra cả. Vỉ thế người ta cũng có thểnghĩ đến cảnh một nhà sư Tây Tạng ngồi trong một hangnúi phát động lòng từ bi của mình để trải rộng ra támphương trời mười phương Phật, hướng vào từng sinh vậtnhỏ nhoi trên hành tinh này và tất cả chúng sinh trong khônggian vô tận, cũng biết đâu có thể mang lại một chút tácđộng nào đó trong không gian mênh mộng và trong đáy tim nhỏbé của của nhà sư. Mọi hiện tượng chung quanh ta, thuộcthế giới vật chất hay phi vật chất, kể cả sự sống,xúc cảm, tư duy cho đến hành động của mỗi cá thể đềuliên đới với nhau, tác động chằng chịt với nhau, pháthiện và biến dạng không ngừng.

LầuHoàng Hạc không cao lắm, tôi quên đếm nhưng hình như cónăm tầng kể cả tầng trệt, cầu thang cũng dễ đi, ngườiđông chen lấn nhau. Trên tầng cao nhất, người ta có thểnhìn thấy cây cầu do người Nga xây cất, bắc ngang sông TrườngGiang, xe cộ tấp nập trên cầu. Khói ô nhiễm của thành phốtỏa rộng mù mịt trên sông và phố xá. Các tòa nhà chọctrời san sát nhau trên hai bờ sông, nhiều vô kể. Phải cómột chút tâm hồn thi sĩ và nhất là phải nhắm mắt lạimới thấy được hàng cây xanh ở bến Hán Dương và cỏ thơmtrên bãi Anh Vũ. Nếu cố gắng tưởng tượng mạnh hơn mộtchút nữa thì may ra sẽ có thể thấy được cánh buồm củaMạnh Hạo Nhiên mất hút ở chân trời trong vùng núi biếc.

Đứngtrên Lầu Hoàng Hạc, ngưởi ta chẳng thấy có gì là thậtcả. Trước mắt không phải cái quang cảnh mà Thôi Hiệu vàLý Bạch đã thấy. Kể cả cái lầu cũng không phải cái lầumà Thôi Hiệu và Lý Bạch đã trèo lên để làm thơ. Chẳngqua tôi "thấy" những chuyện xưa ở trong đầu của tôi màthôi, bằng cái trí tưởng tượng của mình. Cái thấy méomó đó chắc gì đã đúng với "cái thấy" của Thôi Hiệuvà Lý Bạch từ hơn 12 thế kỷ trước. Ấy là chưa nói đếncái "thấy" của hai ông cũng đã bị lệch lạc vì những xúccảm trong lòng hai ông. Cảnh thật của Lầu Hoàng Hạc khôngbiết ở đâu. Quả thật khó mà tìm, có thể là không có? Nhưng nếu không có thì làm sao lại có hai bài thơ đượctruyền tụng đến ngày nay ? Vậy muốn tin là « không có »thì trước hết phải « có » cái đã, nhưng nếu ta cho rằng« có » thì lại sai, vì cái Lầu Hoàng Hạc là cái lầu nàođây ? Có phải là cái lầu mà tôi đang đứng trên tầng caonhất để nhìn ra chiếc cầu do người Nga bắc ngang dòng TrườngGiang hay không ? Nhất định là như thế vì tôi đang đứngtrên nền gạch hoa mòn nhẵn vì vết chân của du khách trêntầng cao nhất của Lầu Hoàng Hạc để nhìn khói mây ô nhiễntỏa mù trên thành phố và trên mặt nước Trường giang.

Bures-Sur-Yvette,28.10.2001

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15983)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3685)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6039)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6231)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3955)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8214)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5573)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15531)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10757)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7871)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]