Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lầu Hoàng Hạc

30/11/201017:10(Xem: 6699)
Lầu Hoàng Hạc


Hoang Phong
MỘT CÕI TỊNH ĐỘ
TRONG MỖI CHÚNG TA
Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

LẦUHOÀNG HẠC

hoang-hac-lau-04

ThôiHiệu (704-754), người Biện Châu, huyện Khai Phong, nay là mộtthành phố lớn thuộc tỉnh Hà Nam. Thôi Hiệu đi chơi tỉnhVũ Xương, trèo lên lầu Hoàng Hạc tức cảnh đề thơ. Bàithơ viết theo thể thất ngôn, lấy tựa là Lầu Hoàng Hạc,dịch âm như sau :

HoàngHạc Lâu

Tíchnhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thửđịa không dư Hoàng Hạc Lâu.

HoàngHạc nhất khứ bất phục phản,

Bạchvân thiên tái không du du.

Tìnhxuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phươngthảo thê thê Anh Vũ châu.

Nhậtmộ hương quan hà xứ thị,

Yênba giang thượng sử nhân sầu.

ThôiHiệu (thế kỷ thứ 8)

Tạmdịch nghĩa như sau:

Ngườixưa đã cỡi hạc vàng bay xa,
Nơinày chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc,

Hoànghạc bay xa không trở lại,

Ngànnăm mây trắng vẫn trôi hoài.

Trờiquang nhìn thấy cả hàng cây ở tận bến Hán Dương.

Cỏthơm xanh rờn trên bãi sông Anh Vũ.

Chiềuxuống, chẳng biết quê nhà ở phương nao,

Khóisóng trên sông khiến cho ta buồn.

Đãtừng có không biết bao nhiêu thi nhân và những người yêuthơ cổ đã dịch bài thơ này, tôi chỉ xin chép ra đây mộtvài bài diễn nôm được nhiều người biết đến, chẳnghạn như của các cụ Tản Đà, Trần Trọng Kim, Khương HữuDụng.

GácHoàng Hạc


Hạcvàng ai cưỡi đi đâu ?

Màđây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ !

Hạcvàng đi mất từ xưa,

Nghìnnăm mây trắng bây giờ còn bay.

Hándương sông tạnh cây bày,

Bãixa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quêhương khuất bóng hoàng hôn,

Trênsông khói sóng cho buồn lòng ai ?

TảnĐà dịch

LầuHoàng Hạc

Ngườiđi cỡi hạc từ xưa,

Đấtnày Hoàng Hạc còn lưa một lầu,

Hạcvàng đi mất đã lâu,

Ngànnăm mây trắng một màu mênh mông.

HánDương cây bóng lòng sông,

Bãikia Anh vũ, cỏ trông xanh rì,

Chiềuhôm lai láng lòng quê,

Khóibay sóng vỗ, ủ ê nỗi sầu.

TrầnTrọng Kim dịch

LầuHoàng Hạc

Aicưỡi hạc vàng đi mất hút,

Trơlầu Hoàng Hạc chốn này thôi!

Hạcvàng một đã đi, đi biệt ?

Mâytrắng ngàn năm bay chơi vơi.

Sôngtạnh Hán Dương cây sáng ửng,

Cỏthơm Anh Vũ bãi xanh ngời,

Hoànghôn về đó, quê đâu tá?

Khóisóng trên sông não dạ người.

KhươngHữu Dụng dịch.

Theotôi bản dịch của cụ Tản Đà hay nhất, nhiều thi tính vàít gượng ép. Quả thật khó mà dịch nổi cách đối ngữvà đối ý trong bài thơ của Thôi Hiệu. Bài thơ của ThôiHiệu có tám câu, ý và chữ đều đối nhau từng cặp haicâu và hai chữ. Kỹ thuật đạt đến mức tuyệt đỉnh. Nhạctính của bài thơ thật phong phú. Ông mô tả thật tài tìnhnhững rung động của ông trước thiên nhiên, và những rungđộng đó đã khơi động trong ông một mối hoài cảm sâuxa. Nhìn khói sóng trên sông khi trời chiều buông xuống ôngbỗng nhớ đến quê nhà, một nơi nào đó vạn dặm xa xôi.Trong khung cảnh trời nước bao la, ông cảm thấy mình lẻloi và cô đơn như chiếc tháp cổ đứng trơ vơ bên bờ nướcTrường giang để hoài nhớ một vị tiên đã ra đi hơn mộtngàn năm trước.

Tôiđã có ý định thử dịch bài thơ này xem sao, nhưng sau khiđọc bản diễn nôm của cụ Tản Đà liền bỏ ngay cái ýđịnh điên rồ đó. Cụ Tản đã cản lối những ngườiđi sau mất rồi. Dịch thơ Đường thất ngôn bằng thể lụcbát là một việc táo bạo, tuy nhiên cụ đã thành công khôngchối cải được. Chỉ thấy hai chữ trong bản dịch củacụ có thể thay đổi được:

-Trong câu thứ ba, chữ "đi" có thể thay bằng chữ "bay", vìchim thì bay đúng hơn là đi.

-Trong câu cuối, chữ "ai", có thể thay bằng chữ "ta", vì chữ"ai" tuy nhẹ nhàng nhưng hời hợt và vô tình hơn chữ "ta",chữ "ta" có vẻ thầm kín và đậm đà hơn, trực tiếp khơilên nỗi buồn đang ray rứt trong lòng thi nhân.

Ngoàira Cụ Tản còn dịch tựa của bài thơ là Gác Hoàng Hạc,thiết nghĩ chữ Gác hơi "khiêm nhường" có thể làm mất đitầm "quan trọng" của một kiến trúc lịch sử trong một thắng cảnh lịch sử.

LầuHoàng Hạc là bài thơ mà nhiều người cho là hay nhất củaThôi Hiệu và bài thơ ấy cũng là một trong những bài thơthất ngôn nổi tiếng của cả thời Đường. Theo tích xưa,vào thế kỷ thứ VI trước tây lịch, có một vị tiên cỡimột con hạc vàng đến đáp ở bãi sông Trường Giang. Ngườisau xây một cái tháp tại nơi này để tưởng nhớ đến vịtiên ấy. Ngọn tháp bên bờ Trường giang về sau đã trởthành một danh lam. Sở dĩ nhiều người biết đến và nóiđến ngọn tháp này có lẽ là nhờ vào hai bài thơ, một củaThôi Hiệu là bài Hoàng Hạc Lâu trên đây và một bài kháccủa của Lý Bạch là bài Nơi lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh HạoNhiên đi Quảng Lăng.

ThôiHiệu sinh năm 704, Lý Bạch sinh năm 701, hai người trạc tuổinhau. Thôi Hiệu đề thơ ở lầu Hoàng Hạc trước nhất. Sauđó khi Lý Bạch đến chơi nơi này và nhìn thấy bài thơ củaThôi Hiệu thì liền phóng bút mà phê như sau:

Nhântiền hữu cảnh đạo bất đắc,
ThôiHiệu đề thi tại thượng đầu.


Haicâu này ngày nay thấy khắc bằng chữ thật lớn thếp vàngtrên một phiến đá thật to cạnh bên lầu Hoàng Hạc, chữvà mặt đá còn mới, chắc chắn không phải bút tích củaLý Bạch. Xin tạm dịch nghĩa hai câu ấy như sau:

Thấycảnh đẹp trước mắt chưa tìm ra lời,
Đãthấy thơ của Thôi Hiệu đề trên đỉnh đầu.

Khennhau đến như thế thì quả thật là siêu phàm, không mấyai làm được và viết được. Tuy khen nhưng biết đâu tronglòng cũng tức nhau một tiếng gáy, vì sau này Lý Bạch cũngcó làm một bài thơ về lầu Hoàng Hạc, viết theo thể thấtngôn tuyệt cú. Bài thơ cũng nổi tiếng không kém bài HoàngHạc Lâu của thôi Hiệu. Bài thơ của Lý Bạch như sau:

HoàngHạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng

Cốnhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yênhoa tam nguyệt há Dương Châu.

Côphàm viễn ảnh bích sơn tận,

Duykiến trường Giang thiên tế lưu.

LýBạch

Tạmdịch nghĩa như sau:

Tiễnbạn từ biệt hướng tây nơi lầu Hoàng Hạc,
Thángba hoa khói, đi Dương Châu.

Cánhbuồm cô độc khuất xa trong vùng núi biếc,

Chỉthấy dòng Trường Giang chảy mãi tận chân trời.

Sauđây là hai bản diễn nôm của các cụ Ngô Tất Tố và TrầnTrọng Kim:

Tạilầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Bạntừ lầu Hạc lên đường
Giữamùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng

Bóngbuồm đã khuất bầu không

Trôngtheo chỉ thấy dòng sông bên trời


NgôTất Tố dịch

TiễnMạnh Hạo Nhiên ở Hoàng Hạc Lâu đi Quảng Lăng

Phíatây bạn biệt Hạc Lâu
Thángba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng.

Cánhbuồm bóng hút màu không,

Trôngxa trắng xóa nước sông bên trời.

TrầnTrọng Kim dịch

Bìnhluận và vạch cái "hay" của Đường thi thì vô tận, chưakể những thêu dệt quá lố của một số phê bình gia. Khôngbiết bao nhiêu sách Tàu và sách Ta nói đến thơ Đường. Ngaycả trong các sách Tây, có những tác giả chỉ cần nghiêncứu, giải thích và bình luận một bài thơ Đường duy nhấtcũng viết thành một quyển sách. Trước hết tôi xin tríchra đây vài chi tiết liên quan đến việc diễn nôm tìm thấytrong một ít sách Ta như sau:

Trongcâu thứ nhất của bài thơ có hai chữ khá khó hiểu là "tâytừ" (từ biệt hướng Tây), các phê bình gia và thinhân của Ta, trong số này có cụ Trần Trọng Kim đều hiểurằng "giã biệt ở hướng Tây lầu Hoàng Hạc".Riêng cụ Ngô Tất Tố thì không thấy nhắc đến hướng Tâytrong câu thơ dịch của cụ, tuy nhiên trong phần ghi chú thìcụ có giải thích rằng Mạnh Hạo Nhiên đi lên phía Tây.Nếu tra cứu kỹ hơn, như trong quyển "Đường thi tam báchthủ" của Lưu Đại Trừng (do một người bạn gốc Hoa thuậtlại cho tôi) thì diễn nghĩa của câu một phải là "Bạncũ đi về hướng Đông, từ biệt nhau ở bên lầu Hoàng Hạc",có lẽ như thế hợp lý hơn vì Mạnh Hạo Nhiên từ biệtphía Tây đi về hướng Đông tức là Dương Châu. Trong mộtcâu thơ cô đọng như thơ Đường mà có đến hai túc từxác định cùng một nơi chốn, vừa chỉ định Lầu HoàngHạc lại còn xác định thêm ở phía Tây của lầu Hoàng Hạc,như thế có lẽ dư. Chẳng lẽ Lý Bạch lại không nhận thấyđiều ấy hay sao ? Mặt khác, ta biết rằng Quảng Lăng vàDương Châu là một, tức ở vào hướng Đông, thuộc tỉnhGiang Tô ngày nay. Mạnh Hạo Nhiên từ biệt hướng Tây đivề hướng Đông. Thơ Đường quả thật tinh vi và bí hiểm,tính cách bí hiểm chẳng qua vì bài thơ quá cô đọng và cáccâu thơ thì lại quá ngắn và ít chữ.

MạnhHạo Nhiên (689-740) là người Tương Dương, tánh tình phóngkhoáng, không màng danh lợi, ẩn cư đọc sách ở núi LộcMôn, cỡi lừa ngao du sơn thủy, nhất định không đi thi. Năm35 tuổi, xuôi dòng Trường Giang đi về phía Đông du ngoạnvùng Chiết Giang, đến năm 39 tuổi mới quay về Tương Dương.Năm 40 tuổi ông lên Tràng An và tại chốn kinh đô tài thiphú của ông đã làm chấn động cả giới thi nhân thời bấygiờ. Theo quyển sách của Cheng W.F. và Collet H. tựa là"Lý Bạch, vị tiên bị đày xuống hạ giới uống rượumột mình dưới trăng" (Li Po l’immortel banni buvant seul sousla lune, nhà xuất bản Moundarren, ấn bản lần thứ tư, 1990)thì Lý Bạch làm bạn với Mạnh Hạo Nhiên lúc ông mới 28tuổi, Mạnh Hạo Nhiên lúc ấy đã 40. Có lẽ hai người gặpnhau ở kinh đô Tràng An. Vậy thì họ từ biệt nhau ở lầuHoàng Hạc vào thời điểm nào, và Lý Bạch làm bài thơ tiễnMạnh Hạo Nhiên vào năm nào ? Có lẽ vào những năm hai ngườimới quen nhau và cùng du ngoạn ở vùng Ba Hẻm Vực trên sôngTrường Giang và sau đó thì từ biệt nhau bên Lầu Hoàng Hạc?

Trongcâu thứ hai, chữ "yên hoa" (hoa khói)không ai biết đích xác là gì. Trong các bài thơ diễn nômcủa các cụ Trần Trọng Kim và Ngô Tất Tố, thì cụ Kim bỏlững không dịch hai chữ "yên hoa", cụ Tố thì dịch thẳnglà hoa khói. Có sách thì giải thích hoa khói là mưa bụi, tuyếtkhói lấm tấm như hoa v.v. và v.v. Tôi dốt đặc chữ Hán,chỉ biết dùng một chút xúc cảm của riêng mình để đưatôi đến gần với Lý Bạch mà thôi. Nếu đứng ở lầu HoàngHạc nhìn ra Trường Giang thì chỉ thấy có sóng và nước,nên tôi trộm nghĩ "yên hoa" ở đây là khói trên mặt sóng,hoặc khói sóng như hoa trên mặt nước tức là bọt sóng,như thế vừa phù hợp với cảnh vật và cả ý thơ : chữyên (khói) trong thơ Tàu thường đi đôi với cảnh sông nước,và con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên thì lướt trên hoasóng của Trường Giang để đi Dương Châu. Hai chữ"yên hoa" cũng gợi lại hình ảnh khói sóng trênsông trong bài thơ Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu.

Trongcâu ba thì hầu hết các sách Tàu và sách Ta đều giải thíchcác chữ "bích không tận" là "màu trời xanh vô tận" (cánhbuồm mất hút trong màu trời xanh vô tận). Riêng sách củaLưu Đại Trừng chép là "bích sơn tận", có lẽ tác giả dựavào những bài thơ ký sự của Lục Du (1125-1210) và cho rằngchữ sơn mới đúng là chữ mà Lý Bạch đã dùng. Dù sao thìchữ sơn cũng có vẻ hay hơn chữ không (cánh buồm xadần trong vùng núi biếc), và cũng tránh được sựlập đi lập lại với chữ "thiên tế" (chân trời) trong câubốn tiếp theo sau. Dầu sao thì cũng khó biết được chữnào mà Lý Bạch đã dùng, trừ trường hợp sau này ngườita khám phá được những di cảo thật xưa và đáng tin cậy.

Sauđây là bản dịch bài thơ của Thôi Hiệu sang Pháp văn tìmthấy trong quyển sách tiếng Pháp đã trích dẫn trên đây:

AuPavillon de la Grue jaune, adieu à Meng Hao Jan qui part à Kuan ling

Monvieil ami quitte l’ouest au Pavillon de la Grue jaune
Dansla splendeur des nuées de fleurs au trosième mois, il descend vers Yangchow

Lavoile solitaire, lointaine silhouette, dans l’azure disparaît

Onne voit plus que le Long Fleuve couler au bord du ciel.

ChengW.F. và Collet H., tháng 5, 1988 (Sách xuất bản lần thứ nhất)

Theobản dịch này ta thấy rõ là Mạnh Hạo Nhiên rời hướngTây nơi Lầu Hoàng Hạc và hoa khói có nghĩa là hoa xuântrong tháng ba.Tác giả còn thêm tĩnh từ rực rỡ (splendeur)để chỉ hoa khói(nuées de fleurs), tĩnh từ rựcrỡchẳng những đã không có trong câu thơ của LýBạch lại không phù hợp với ý và xúc cảm của toàn bàithơ, vả lại không hợp lý nữa vì thuyền của Mạnh HạoNhiên lướt đi trên mặt nước Trường Giang chứ không phảitrên hoa xuân rực rỡ. Câu ba không nhắc đến chữ "sơn" haychữ "không", chỉ nói là bóng con thuyền cô độc mất húttrong màu trời xanh. Hai tác giả Cheng và Collet có lẽ cũngkhông hiểu rõ bốn chữ yên hoa tam nguyệtnênđã dịch bốn chữ này là hoa xuân(hoa vào thángba), theo tôi thì tháng ba là một túc từ chỉ thời gian khôngliên hệ gì đến khói sóng trên mặt nước Trường giang.

Tôixin mạn phép góp thêm vài lời dịch vụng về như sau :

HoàngHạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng lăng

Tiễnbạn rời Tây lầu Hoàng Hạc,
Thángba hoa nước mờ chân sóng,

Xuôimái Dương Châu xa cố nhân.

Cánhbuồm hun hút vùng núi biếc,

TrườngGiang chảy mãi tận chân trời.

HoangPhong dịch tại Lầu Hoàng Hạc
Ngày09.09.2001

Bàithơ của Lý Bạch hết sức cô đọng, không thể dịch bằngcách tóm tắt trong bốn câu theo nguyên bản, vì thế tôi xinmạn phép dùng đến năm câu mới lột hết ý của bài thơ.Tôi không quan tâm đến thi luật mà chỉ cố gắng trình bàymột chút xúc cảm và nhạc tính cảm nhận được trong bàithơ của Lý Bạch mà thôi. Xin chân thành tạ lỗi với cụLý và những người đọc các dòng này.

LầuHoàng Hạc nguyên thủy được dựng lên trên một bãi sônggần núi Xà Sơn thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc, sau đượcdời đến gần đầu cầu Vũ Xương thành phố Vũ Hán. Câycầu Vũ Xương bắc ngang sông Trường Giang, khá đồ sộ dongười Nga xây giúp. Cầu có hai tầng, một tầng dành riêngcho xe lửa, một tầng cho xe ô-tô, các loại xe khác và ngườiđi bộ. Gần bên chiếc cầu là khách sạn Holiday Inn cao ngấtvà sang trọng, dành cho du khách đến xem lầu Hoàng Hạc. Phíasau khách sạn là bến đò dùng làm nơi đưa đón du khách ngượcsông Trường Giang đi vào vùng Ba Hẻm Vực. Quả thật ngườisau cũng biết chọn chỗ để làm ăn lắm, không biết họcó nghĩ đến công lao của Thôi Hiệu nặn óc để làm thơgiúp cho lầu Hoàng Hạc được nổi tiếng hay không ?

LầuHoàng Hạc chẳng những đã thay đổi vị trí mà còn đượcxây đi xây lại không biết bao nhiêu lần qua mười mấy thếkỷ nay rồi. Ngày xưa, lầu cất bằng cây nên thường bịcháy. Lầu mới ngày nay dùng thêm vật liệu cứng như gạchđá, và được xây dựng vào thời nhà Thanh, cách nay mộthay hai trăm năm là nhiều. Chiếc lầu mới có trang bị thêmcả thang máy cho du khách lớn tuổi hay những người lườitrèo cầu thang. Vé vào cửa có băng từ tính đọc bằng máyđể dễ kiểm soát từng chặng, giá 30 yuẩn (nhân dân tệ)tức độ chừng 28 quan Pháp. Nếu dùng thang máy đi lên thìdu khách phải trả thêm 2 yuẩn ; nếu dùng thang máy trở xuốngthì rẻ hơn, chỉ phải trả thêm 1 yuẩn thôi.

Mỗingày có hàng ngàn du khách từ xa đến viếng Lầu, vừa tốnkém cho họ lại vừa mất thì giờ chờ đợi vì quá đôngngười. Họ ồn ào, tấp nập, tuy nhiên họ vẫn kiên nhẫnxếp hàng mua vé và nối đuôi nhau chờ đến lượt lên lầu.Người xưa thì phải khổ sở xây đi xây lại không biếtbao nhiêu lần cái Lầu Hoàng Hạc, dời hết chỗ này đếnchỗ khác. Tất cả chẳng qua cũng vì một vài xúc cảm nhỏnhoi của thi nhân mà ra cả. Vỉ thế người ta cũng có thểnghĩ đến cảnh một nhà sư Tây Tạng ngồi trong một hangnúi phát động lòng từ bi của mình để trải rộng ra támphương trời mười phương Phật, hướng vào từng sinh vậtnhỏ nhoi trên hành tinh này và tất cả chúng sinh trong khônggian vô tận, cũng biết đâu có thể mang lại một chút tácđộng nào đó trong không gian mênh mộng và trong đáy tim nhỏbé của của nhà sư. Mọi hiện tượng chung quanh ta, thuộcthế giới vật chất hay phi vật chất, kể cả sự sống,xúc cảm, tư duy cho đến hành động của mỗi cá thể đềuliên đới với nhau, tác động chằng chịt với nhau, pháthiện và biến dạng không ngừng.

LầuHoàng Hạc không cao lắm, tôi quên đếm nhưng hình như cónăm tầng kể cả tầng trệt, cầu thang cũng dễ đi, ngườiđông chen lấn nhau. Trên tầng cao nhất, người ta có thểnhìn thấy cây cầu do người Nga xây cất, bắc ngang sông TrườngGiang, xe cộ tấp nập trên cầu. Khói ô nhiễm của thành phốtỏa rộng mù mịt trên sông và phố xá. Các tòa nhà chọctrời san sát nhau trên hai bờ sông, nhiều vô kể. Phải cómột chút tâm hồn thi sĩ và nhất là phải nhắm mắt lạimới thấy được hàng cây xanh ở bến Hán Dương và cỏ thơmtrên bãi Anh Vũ. Nếu cố gắng tưởng tượng mạnh hơn mộtchút nữa thì may ra sẽ có thể thấy được cánh buồm củaMạnh Hạo Nhiên mất hút ở chân trời trong vùng núi biếc.

Đứngtrên Lầu Hoàng Hạc, ngưởi ta chẳng thấy có gì là thậtcả. Trước mắt không phải cái quang cảnh mà Thôi Hiệu vàLý Bạch đã thấy. Kể cả cái lầu cũng không phải cái lầumà Thôi Hiệu và Lý Bạch đã trèo lên để làm thơ. Chẳngqua tôi "thấy" những chuyện xưa ở trong đầu của tôi màthôi, bằng cái trí tưởng tượng của mình. Cái thấy méomó đó chắc gì đã đúng với "cái thấy" của Thôi Hiệuvà Lý Bạch từ hơn 12 thế kỷ trước. Ấy là chưa nói đếncái "thấy" của hai ông cũng đã bị lệch lạc vì những xúccảm trong lòng hai ông. Cảnh thật của Lầu Hoàng Hạc khôngbiết ở đâu. Quả thật khó mà tìm, có thể là không có? Nhưng nếu không có thì làm sao lại có hai bài thơ đượctruyền tụng đến ngày nay ? Vậy muốn tin là « không có »thì trước hết phải « có » cái đã, nhưng nếu ta cho rằng« có » thì lại sai, vì cái Lầu Hoàng Hạc là cái lầu nàođây ? Có phải là cái lầu mà tôi đang đứng trên tầng caonhất để nhìn ra chiếc cầu do người Nga bắc ngang dòng TrườngGiang hay không ? Nhất định là như thế vì tôi đang đứngtrên nền gạch hoa mòn nhẵn vì vết chân của du khách trêntầng cao nhất của Lầu Hoàng Hạc để nhìn khói mây ô nhiễntỏa mù trên thành phố và trên mặt nước Trường giang.

Bures-Sur-Yvette,28.10.2001

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/04/2015(Xem: 8748)
Nghi thức trợ niệm lúc lâm chung trong Phật Giáo được các bậc cao tăng Đại Đức hoằng dương ở Đài Loan đã gần 20 năm nay, dần dần được đón nhận tích cực và phụng trì của quảng đại quần chúng trong xã hội và trong giới Phật Giáo tại Đài Loan. Nghi thức trợ niệm vốn là một phương pháp trợ duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc trong Tịnh Độ tông, do các vị đại sư Ấn Quang, đại sư Hoằng Nhất cùng các vị cư sĩ đề xướng vào đầu thế kỷ 20. Năm 1951 tại Đài Loan có cư sĩ Lý Bỉnh Nam thành lập “Đài Trung Liên xã”, năm 1986 có hai vị cư sĩ Trí Mẫn và Huệ Hoa tông Viên Giác (được các Phật tử tôn kính xưng là hai vị thượng sư) thành lập Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, đem toàn lực hộ trì và phát dương nghi thức trợ niệm lúc lâm chung. Nghi thức trợ niệm dần dần trở thành pháp môn tu tập phổ biến được quảng đại dân chúng trong xã hội Đài Loan tiếp nhận và hành trì.
06/04/2015(Xem: 18354)
Trong mọi khóa lễ, Chư tăng ni, Phật tử đều cầu xin: “Trú dạ lục thời an lành”. Tức ngày đêm hai mươi bốn tiếng an lành. Nhưng an lành là gì? Chiến tranh không phải an lành.
05/04/2015(Xem: 387919)
Vào ngày 15 tháng 02 năm 2015 tại Như Lai thiền tự, thành phố San Diego, miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ; được sự chứng minh của Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Tăng già Khất sĩ Thế giới Thích Giác Nhiên cùng chư Tôn đức chứng minh, Hòa thượng Bổn sư Thích Minh Hồi đã cắt tóc cầu nguyện và chứng minh cho Phật tử Tâm Hoa, thế danh Võ Elizabeth Bích Liên xin xuất gia, ban pháp hiệu là Liên Ngọc và chỉ dạy cô về tịnh xá Ngọc Vân ở Việt Nam làm lễ thế phát xuất gia.
03/04/2015(Xem: 22226)
Ngọc xá lợi là phần di thể của các vị cao tăng Phật giáo sau hỏa táng. Đó là những hạt kích thước nhỏ, có dạng tròn hoặc các dạng khác. Một số hạt nhỏ có thể trông giống ngọc trai hoặc pha lê, với màu sắc khác nhau. Đó là bảo vật của Phật giáo toàn thế giới, cần lưu ý rằng, tất cả những gì thuộc về Phật tổ và các vị Thánh tăng như y bát, tóc, móng tay... cũng được xem là xá lợi. Dân gian vẫn thường đồn thổi về ngọc xá lợi với thực hư lẫn lộn. Chẳng hạn một vị chân tu 64 tuổi đã ngồi thiền 49 ngày rồi viên tịch tại chùa Vĩnh Bình thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình nên có nhiều xá lợi. Còn ngọc xá lợi của Phật tổ thì có công năng kỳ diệu như phát quang, tự di chuyển hoặc có thể phân ra thành các viên ngọc khác.
02/04/2015(Xem: 11950)
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, tôi thường ra một quán cà phê hay tiệm sách gần nhà để ngồi đọc sách. Ở bên này có những tiệm sách lớn, bên trong có hàng bán cà phê với những chiếc bàn nhỏ, chúng ta có thể ngồi uống nước, đọc sách hay viết lách gì cũng được, rất thích và tiện lợi.
01/04/2015(Xem: 8764)
Tôi năm nay 24 tuổi, công việc ổn định và yêu một anh bạn đồng nghiệp, hai chúng tôi dự định ba tháng nữa sẽ làm lễ cưới (lễ hằng thuận) ở chùa. Vừa rồi, tôi đưa anh ấy ra Bắc, nơi chùa chị tôi xuất gia tu học để làm lễ quy y cho anh. Quy y xong, anh được nhà chùa cho tụng kinh, khi tụng xong thì chuyện bất ngờ xảy ra, chồng sắp cưới của tôi xin phép thầy xuất gia. Sự việc xảy ra quá nhanh khiến tôi hết sức bất ngờ, buồn vui lẫn lộn. Nếu anh ấy xuất gia được thì hủy lễ cưới luôn. Thầy bảo sẽ trợ duyên cho anh ấy ở chùa tập sự một năm mới được xuống tóc và gửi đi học. Bây giờ, ngoài việc niệm Bồ-tát Quan Thế Âm ra, tôi chẳng biết làm gì nữa.
31/03/2015(Xem: 8905)
Giới luật và Phẩm Hạnh Huynh Trưởng
31/03/2015(Xem: 18506)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 18847)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
28/03/2015(Xem: 8754)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]