Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Vô thường

17/11/201017:20(Xem: 7615)
11. Vô thường

VÔ THƯỜNG

Người đời khiđã phát nguyện quy y Tam Bảo là họ đã an trú trong ngôi nhàNhư Lai, vì đó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất. Chánh phápNhư Lai là hào quang chân lý, giúp cho chúng sanh phân địnhđược đâu là tính chất mê muội, luân hồi và đâu là giácngộ, giải thoát. Chánh pháp Như Lai còn soi sáng cho chúng sanhphá tan màn vô minh điên đảo để dứt trừ mọi sai lầmđau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cú có dạy:
"Vì sợ hãi bất an mà đếnquy y thần núi, quy y thần cây, quy y miếu thờ thổ thần nhưngđó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy ytối thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Tráilại quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, phát trí tuệ chân chính,hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biết khổ nhân, biếtkhổ diệt và biết tám chi Thánh đạo diệt trừ khổ não;đó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy ynhư vậy, giải thoát hết đau khổ".
Vì không nhận chân đúng lời Phậtdạy, nên chúng sanh sống trong cảnh vọng tưởng mà khởità kiến: vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã,không thanh tịnh chấp là thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc,nên bị luân hồi và đau khổ triền miên.

Tất cả mọi sự vật trong thếgian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng luôn luônsanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giớikhông một vật nào tồn tại vĩnh viễn và có thể đứngyên một chỗ; tất cả đều vô thường, không những vô thườngtrong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từngsát-na sanh diệt.

Ðối với con người cũng vậy,hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai soi gương lại đã thấybạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấynếp nhăn nheo.

Vũ trụ, sơn hà, đại địa, dùrất to lớn khiến chúng ta tưởng lầm nó là kiên cố, nhưngthật ra nó cũng chịu sự biến hoại vô thường không kém.Hòn núi kia khi chúng ta chưa sanh nó đã có, đến khi chúngta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng ta tưởng hòn núi đó là thường;cho đến của cải vật chất, nhà cửa chúng ta cũng tưởnglầm như thế. Vì tưởng lầm nên chúng ta quay cuồng trongvòng điên đảo, đem cái tâm tham, sân, si để giành giựtlấy những gì chúng ta cho là quý, là thường, là chân thật,nên mới gây ra biết bao đau khổ xấu xa, thậm chí đôi lúccòn giành giựt nhau từng đồng bạc, từng chút địa vị,từng lời ăn tiếng nói, từng bước đi, từng cử chỉ...Ðến như cái thân của chúng ta do tứ đại (đất, nước,gió, lửa) hợp thành, do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,thức) cấu tạo nên, từ khi cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắmmắt lìa đời, không biết bao nhiêu lần biến chuyển đổithay cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta cũng thay đổitrong từng giờ, từng khắc mà chúng ta không hay, không biết.

Thân thể của mọi người đềuvô thường như thế - Ðôi lúc chúng ta cũng biết như thế,nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong thân của chúng ta tồn tạimãi mãi, tại vì lòng tham, chấp ngã, nên chúng ta thấy "ta"là quý hơn tất cả mọi người, chỉ có "ta" mới đáng đượctrọng vọng, khen ngợi, còn người khác thì không nên trọngvọng, khen ngợi. Chính là vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganhtỵ, tham lam của chúng ta mà ra.

Vả lại trong ta có những lúc tham,lúc giận, lúc si, nhưng cũng có những lúc từ bi, hỷ xả,tâm muốn bố thí giúp ích mọi người. Vậy nếu nói lúctham là ta và lúc giận, lúc si, lúc bố thí, lúc từ bi, hỷxả cũng là ta; thế thì, chính trong một bản thân ta hóa racó không biết bao nhiêu cái ta. Thử hỏi trong những cái tađó cái nào đích thực là ta? Khi ta tham lam thì cái tham đóthật là ta; khi ta giận, cái giận đó thật là ta, hay khi takiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn, tật đố đó là ta? Nếunói tham là ta thì ta sẽ là con người tham mãi không bao giờthay đổi được! Nếu nói kiêu mạn, tật đố là ta, thìkiêu mạn tật đố không bao giờ thay đổi được! Nhưng không,dù có kiêu mạn, tật đố nhưng khi biết tu hành, phá trừkiêu mạn, sống một cách khiêm tốn, thì có thể thay đổiđược. Dù tham lam nhưng nếu hiểu được đạo lý thì cũngcó thể chuyển đổi được lòng tham lam ra lòng bố thí.

Rõ ràng, tâm của chúng ta luôn luônthay đổi, thân thể của chúng ta cũng thay đổi không ngừng,không có lúc nào thật là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tựnghĩ ta đây là ta, thì lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi.Bởi vì trong lúc ta nói ta đây, thì chính ảnh tượng mà tatưởng là ta đó cũng đổi khác đi rồi. Tâm hồn ta giờnày không còn như giờ phút trước. Cho nên, vừa mới mởmiệng nhắc đến cái ta thì cái ta đó đã bay đi mất. Thếmà vì không hiểu, cho nên cứ đinh ninh rằng: "Ta đây, ta quýhơn tất cả, muốn được tất cả mọi người tôn trọng,khen ngợi, và tuyệt đối không ai được chê ta hết. Nhưngngược lại ta cũng không muốn tôn trọng và khen ngợi ai cả".Cái ta nó làm cho con người điên đảo, hẹp hòi như vậyđó.

Cho nên, chúng sanh đau khổ là vìvô ngã mà chấp là ngã, không ta mà chấp thật là ta. Ai biếtnhìn kỹ thân thể của mình, qua pháp môn "Bất tịnh quán"như đức Phật đã dạy thì sẽ thấy toàn thân chất chứanhững đồ bất tịnh, nếu bỏ lớp da ngoài thì ai cũng dơbẩn như ai. Cái bất tịnh ấy đã có từ trong bào thai, vàkhi lọt lòng mẹ cũng đã bất tịnh rồi. Dù được trangđiểm bao nhiêu cũng chỉ là cái thân bất tịnh, cho đếnkhi nhắm mắt tắt thở, nó cũng là bất tịnh. Ðối vớicái thân bất tịnh này rõ ràng như vậy mà chúng ta khôngnhận thấy; ngược lại còn chấp cái thân này là tịnh, nênnâng niu, chiều chuộng, trau chuốt nó quá đáng. Vì mù quángđối với thân vô thường, lại cho là thường nên con ngườiluôn luôn đau khổ vì nó.

Ngày xưa có nàng Liên Hoa Sắc, khinghe đức Phật dạy về đạo lý vô thường, rằng thân thểbất tịnh, chúng sanh bất tịnh, hữu tình bất tịnh, thìcô ta liền phát tâm muốn đi tu. Nhưng trên bước đườngđi tu ngang qua một dòng sông, cô xuống sông rửa mặt, nhìnthấy bóng mình dưới nước có gương mặt quá đẹp, cô nghĩthầm: "Mình đẹp như thế này mà đi tu thì uổng quá!" Côbèn quay trở lại. Bạn bè gặp cô trở về bèn hỏi: "Tạisao trước kia chị phát tâm dõng mãnh, muốn đến đức Phậtđể cầu xin xuất gia, tu hành, bây giờ chị lại thối chítrở lui là thế nào?" Cô ta trả lời rằng: "Ôi! Tôi đẹpquá như thế này mà đi tu làm gì cho uổng!" Họ hỏi: "Vậychị đẹp như thế nào?" Cô ta trả lời: "Tôi soi mặt dướinước thấy cái bóng của tôi phản chiếu dưới đó, hếtsức là đẹp".

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấyrằng: Cái đẹp của cô ta chỉ là cái đẹp phản chiếu lạilòng tham đắm xác thân chứ đối với người khác chưa chắcđã đẹp, và đôi với loài cá dưới nước khi thấy bóngcô ta thì phải chạy trốn xa. Cô ta thấy cái bóng mình dướinước cho là đẹp, vì nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờnó đang xấu, đang hủy hoại từ từ mà cô ta không biếtkhông hay!

Cho nên trong kinh Xà Dụ, đức Phậtdạy:

"Này các Tỷ-kheo, sắc làthường hay vô thường? Bạch Thế Tôn, vô thường. Cái gìvô thường là khổ hay lạc? Bạch Thế Tôn, khổ... Do vậynày các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các ngươi, hãy từbỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ngươi."
Trong bốn sự thật mà đức Phậtdạy, sự thật đầu tiên là khổ (dukkha). Ngài nói cuộc đờidù có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc khôngthoát ly sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biếtbao nhiêu cái khổ trong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ.Ðó là cái khổ thường tình ai cũng nhận thấy, cái khổtự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không aitránh khỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã khôngcất ba tiếng khóc oa oa oa khi mới lọt lòng. Nếu một ngườibịnh không khổ thì họ đã không rên xiết. Người già khôngkhổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một ngườichết không khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanhkhổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ là một sự thật hiểnnhiên mà đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đócòn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, nhữngngười mình thích, những đồ vật mình ham muốn tưởng rằngđó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền vớimình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vìluật vô thường, những thứ đó nó rời khỏi tầm tay, khôngcách gì cầm giữ lại được. Ðó chính là ái biệt ly khổ.

Ðối với những người, nhữngvật mình ghét, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránhđược; mình muốn lờ đi nhưng nó cứ hiện ra trước mặt.Trên một con đường, ai cũng muốn đi trên con đường sạchsẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai muốn đi trên con đườnglầy lội, đầy gai góc hiểm độc ấy, muốn tránh nhưng bướcđâu vướng đó, muốn né nhưng đi đâu vấp đó. Ðối vớisự vật bên ngoài đã vậy, còn đối với người xung quanh,có người ta ưa thích, nhưng cũng có người ta ghét, ta khôngưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng ở giữa hai cái ưa và khôngưa đó cũng tạo nên một cảnh ghét mà phải gặp là khổ,cho nên tục ngữ ta có câu: "Ghét của nào trời trao của ấy".Bên này oán bên kia và bên kia oán bên này. Một khi đã oánnhau như vậy thì vũ trụ bao la trở thành thu hẹp lại mộtgóc. Gặp một người oán ghét ta muốn tránh, nhưng tránh hoàiđến nỗi hết muốn gặp mà cũng không sao tránh được. Vũtrụ bao la trong giờ phút này trở nên chật hẹp đến nỗita tưởng nó không còn một chỗ an toàn cho ta dung thân. Ðólà cảnh oán tắng hội khổ. Cảnh này nếu nằm trong gia đình,trong thân tộc, trong bản thân của mỗi người thì lại càngkhổ hơn nữa.

Chúng sanh luôn luôn nuôi dưỡnglòng tham muốn và mong cầu, đối với cuộc đời này họchưa một lần biết đủ, cảm thấy mình như một ngườithiếu thốn, họ tìm đủ mọi cách để ôm trọn thế giannày. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người thật ngắn ngủi,một trăm năm không đủ bề dày thời gian để làm thỏa mãnlòng tham của họ, vì vậy họ chịu khổ đau suốt đời vìham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu, gọi là cầubất đắc khổ.

Dẫu có người cho rằng đời còncó nhiều thú vui chứ đâu phải khổ hết. Coi xi-nê, coi hát,bài bạc, rượu chè cũng vui, trúng số độc đắc hay làmquan cũng vui. Ðức Phật không phủ nhận điều đó, nhưngNgài nói: Cái vui đó là cái vui mong manh trong đau khổ, cáivui còn vướng trong vô minh nghiệp chướng đưa đến khổđau càng sâu dày thêm. Cho nên có một nhà thơ Việt Nam viết:

"Bể khổ mênh mông nướcngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyềnchơi,

Thuyền ai ngược gió ai xuôigió,

Ngẫm lại cùng trong bể khổthôi".
Ngược gió hay xuôi gió, chiếc thuyềncũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lên trên biểnđược. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luânnày là cái vui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cáivui giải thoát. Do thế, đức Phật nói đời là đau khổ,mặc dù chúng sanh cho đời là vui, rồi say đắm theo đời,không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đóphải nhắm mắt tắt thở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổđau!

Nếu biết đem toàn tâm lực an trútrong Chánh pháp thì sẽ nhận rõ lời đó của đức Phật:tất cả sự vật là vô thường, chúng sanh là vô ngã, thânthể là bất tịnh, mọi sự lãnh thọ đều là khổ: dù làthọ khổ hay thọ vui, cũng đều ở trong vòng tương đối.Ðã ở trong vòng tương đối thì có sanh diệt, có sanh diệttất nhiên lòng chúng ta không thỏa mãn, nên sanh ra đau khổ.Ðức Phật vì đại sự nhân duyên đó mà ra đời, để chuyểnmê khai ngộ cho chúng sanh. Mục đích tu hành của người tuPhật là để chuyển nghiệp. Ngài dạy rằng: "Nghiệp dắtthế gian tới, nghiệp kéo thế gian đi, thế gian chuyển theonghiệp, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe". Con vật kéoxe đi vào trong con đường tối tăm mù mịt thì bánh xe cũngphải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp cũng tương tự nhưthế. Mỗi người đều có những nghiệp riêng, nghiệp tốtthì làm cho con người tốt, nghiệp xấu thì làm cho con ngườixấu, nghiệp cao thượng thì trở thành con người cao thượng,và nghiệp thấp hèn thì trở thành con người thấp hèn. Tấtcả đều do nghiệp. Nghiệp là bào thai, nghiệp là sở hữu,cho nên khi sanh ra, khi chết đi, ta cũng chỉ một mình đi theonghiệp chớ không có ai đi theo ta hết. Không ai thay thế tađể đi theo trong khi ta sanh, già, bịnh, chết với cái nghiệpcủa ta mà thôi. Cái nghiệp luôn luôn đi theo ta như bóng theohình. Những người tạo nghiệp lành thì có những ngườibạn lành cùng đi theo. Những người tạo nghiệp dữ thì cónhững kẻ oan gia thù hận đi theo. Người tạo nghiệp lànhthì như mang bình cam lồ đi đây đi đó. Người tạo nghiệpác thì như mang một bồ rắn độc bên mình, luôn luôn nơmnớp sợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật dạy, con người làdo nghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy: "Con thiên nga chỉbay được giữa hư không, người có thần thông chỉ bay đượckhỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí, đại hạnh dứt sạchnghiệp luân hồi mới bay được khỏi thế gian này" (PhápCú 175).

Bay khỏi thế gian này tức giảithoát, tự tại. Nên con người tu hành là để chuyển nghiệp.Chuyển nghiệp xấu thành tốt, vô minh ra giác ngộ, trầm luânra giải thoát. Tóm lại, chuyển cái nghiệp của chúng sanhra cái nghiệp của chư Phật, Thánh, Hiền. Khi chuyển nghiệpđược rồi thì chính cái nghiệp đó nó trở thành một tòalâu đài để nâng đỡ chúng sanh, giúp cho chúng sanh đượcan vui, giải thoát...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/08/2021(Xem: 5631)
Dharamshala: Sáng sớm ngày 5 tháng 7 năm 2021, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ngỏ lời nhâp dịp sinh nhật lần thứ 86 của mình, để cảm ơn đến với mọi người, vì những lời chúc mừng sinh nhật từ khắp nơi trên thế giới. “Tôi chỉ là một con người bình thường như bao nhiêu người khác. Thực sự cho thấy nhiều người yêu quý tôi. Nhiều người yêu quý nụ cười hồn nhiên của tôi. Tuy tuổi cao nhưng khuôn mặt của tôi khá tươi trẻ. Nhiều người đã cho tôi thấy tình bạn chân chính.
02/08/2021(Xem: 5582)
Trước tiên muốn hiểu về vấn đề này, chúng ta phải biết rõ, tin sâu và chấp nhận thuyết “nhân quả, luân hồi” ! Khoa học ngày nay đã trải nghiệm và chứng minh rằng: "Mỗi động lực gây ra đều tạo một phản lực tương đồng và ngược chiều, động lực và phản lực không bao giờ tách rời nhau". Nhân quả là quy luật đã sẵn có trong vũ trụ, nên có tính bất biến và rất nghiêm minh, gieo nhân từ ba nghiệp thân, khẩu, ý rồi, khi đủ duyên phải nhận quả, trong hiện đời hoặc nhiều kiếp về sau, không thể chạy trốn vào đâu được. Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa”.
02/08/2021(Xem: 14775)
Có những nghi lễ tưởng chừng như hủ hoá trong thời đại văn minh này nhưng lại có ý nghĩa vô vàn sâu sắc ! Nhìn hình ảnh đảnh lễ của hơn 40 tăng ni chùa Huyền Không Sơn Thượng trong những buổi trà đàm được tổ chức vào mỗi sáng thứ bảy do HT Giới Đức chủ trì thật là một hình ảnh đẹp lạ vô cùng . Phải chăng đó là hình ảnh của một sự tôn kính sâu xa của một đệ tử đối với Sư Phụ mình? ( một Minh Sư mà mình kính quý và tôn thờ như một Phật hay Bồ tát ) Chợt nhớ lại bài giảng của Sư Ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh về Ngũ Phần Pháp Thân khi niệm hương mỗi sáng và bài Hô canh thiền khi TT Thích Nguyên Tạng trong khóa tu An Cư Kiết Đông tại chùa Pháp Hoa ...tôi đã chiêm nghiệm và thu thập những bài học vô cùng quý giá trong quảng đời tu học, nhân hôm nay lại được đọc toàn bài pháp thoại Chuông và Mỏ của Thầy (được phiên tả do Phật Tử Diệu Tuyết và Phật Tử Thanh Phi chỉnh lỗi chính tả ) , Kính xin mạn phép trình bày điều sơ sót khuyết điểm của mình từ trước dưới con mắt củ
02/08/2021(Xem: 3994)
Nhiều nhà sư đang khoác lên mình bộ quần áo bảo hộ y tế để tham gia chống dịch khi Covid-19 bùng phát mạnh tại Thái Lan. Thái Lan đang phải chật vật kiềm chế đợt bùng phát Covid-19 mới nhất do biến chủng dễ lây nhiễm Delta gây ra. Số ca nhiễm gia tăng nhanh chóng khiến hệ thống y tế bên bờ vực quá tải và gây thêm thiệt hại cho nền kinh tế vốn đã suy yếu vì đại dịch.
01/08/2021(Xem: 12712)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
30/07/2021(Xem: 4243)
Đại dịch đang tàn phá quê nhà. Đất nước như trong nhà lửa. Mọi người đều đang sống trong nỗi lo. Nhiều người bất an, kể cả trong giấc ngủ, hễ chợp mắt là những hình ảnh đáng sợ hiện ra. Có những bài kinh nào để hộ thân, và để có giấc ngủ bình an? Bài viết này sẽ tìm các bài kinh đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hành – vừa để hộ thân, vừa có giấc ngủ bình an. Người viết không có thẩm quyền gì, nơi đây chủ yếu là chép lời Đức Phật dạy. Các sai sót, nếu có, xin được sám hối. Công đức chép kinh xin hồi hướng về quê nhà cho tất cả mọi người bình an.
29/07/2021(Xem: 6575)
Giếng nước tình thương cho dân nghèo xứ Ấn Namo Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát ''..Đầu cành dương liễu vương Cam Lộ - Một giọt mười phương rưới cũng đầy Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết - Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây. '' Kính thưa quí Ni Sư và quí vị hảo tâm Từ thiện. Trong tâm niệm hành thiện: ''Sáng cho người thêm niềm vui- Chiều giúp người vơi bớt khổ'', hôm nay chúng tôi vừa hoàn tất một số giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo khu vực làng Uruvela Uruvela-Kassapa, Gaya, Nalanda tiểu bang Bihar India. 6 giếng nước này được thành tựu từ lòng bi mẫn của chư vị trong nhóm Phật tử chùa Từ Hạnh- Xin chia sẻ cùng quí vị một vài hình ảnh tường trình.
28/07/2021(Xem: 4403)
Đây là những điều tôi đã nghe: Vào một thời, Đấng Chiến Thắng Siêu Việt đang cư ngụ cùng với đại chúng tu sĩ và đại chúng Bồ tát trên núi Linh Thứu ở thành Vương Xá. Vào lúc ấy Đấng Chiến Thắng Siêu Việt đang nhập đại định làm minh bạch các hiện tượng được gọi là “trực giác thậm thâm”. Cùng lúc ấy, Đại sĩ Bồ tát, Quán Tự Tại Thượng nhân, cũng đang quán sát sự thực hành tuệ trí hoàn thiện thậm thâm và đang quán chiếu những tập hợp này (sắc, thọ, tưởng, hành, thức[1]) như trống rỗng sự tồn tại cố hữu, không hơn không kém.
27/07/2021(Xem: 7996)
Chuông là một pháp khí linh thiêng, quan trọng trong nghi thức Phật giáo, nhất là Đại Hồng Chung (chuông lớn, còn gọi là chuông u minh). Tiếng chuông chùa hằng ngày thong thả vang xa khắp chốn không gian, thâm trầm giữa bao náo nhiệt của cuộc đời, ngân nga giữa những tang thương dâu bể, thức tỉnh biết bao khách trọ trần gian, còn mãi mê lo “hướng ngoại tìm cầu” chạy theo đuổi bắt ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), gọi thế nhân đang mê đắm nơi bể khổ trầm luân, trở về cõi an nhiên. Cho đến nay nhiều ngôi chùa, nhất là chùa Việt Nam đã có mặt khắp nơi trên thế giới, cho nên "Tiếng chuông chùa thật là gần gũi, không thể thiếu trong đời sống dân lành của mọi thời đại, mọi quốc độ”. Kinh Tăng Nhất A Hàm có bàn về vấn đề này: “Mỗi khi tiếng chuông chùa ngân vang thì những hình phạt trong ác đạo được tạm thời dừng nghỉ, chúng sanh chịu hình phạt được tạm thời an vui”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]