Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Vô thường

17/11/201017:20(Xem: 5872)
11. Vô thường

VÔ THƯỜNG

Người đời khiđã phát nguyện quy y Tam Bảo là họ đã an trú trong ngôi nhàNhư Lai, vì đó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất. Chánh phápNhư Lai là hào quang chân lý, giúp cho chúng sanh phân địnhđược đâu là tính chất mê muội, luân hồi và đâu là giácngộ, giải thoát. Chánh pháp Như Lai còn soi sáng cho chúng sanhphá tan màn vô minh điên đảo để dứt trừ mọi sai lầmđau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cú có dạy:
"Vì sợ hãi bất an mà đếnquy y thần núi, quy y thần cây, quy y miếu thờ thổ thần nhưngđó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy ytối thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Tráilại quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, phát trí tuệ chân chính,hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biết khổ nhân, biếtkhổ diệt và biết tám chi Thánh đạo diệt trừ khổ não;đó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy ynhư vậy, giải thoát hết đau khổ".
Vì không nhận chân đúng lời Phậtdạy, nên chúng sanh sống trong cảnh vọng tưởng mà khởità kiến: vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã,không thanh tịnh chấp là thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc,nên bị luân hồi và đau khổ triền miên.

Tất cả mọi sự vật trong thếgian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng luôn luônsanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giớikhông một vật nào tồn tại vĩnh viễn và có thể đứngyên một chỗ; tất cả đều vô thường, không những vô thườngtrong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từngsát-na sanh diệt.

Ðối với con người cũng vậy,hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai soi gương lại đã thấybạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấynếp nhăn nheo.

Vũ trụ, sơn hà, đại địa, dùrất to lớn khiến chúng ta tưởng lầm nó là kiên cố, nhưngthật ra nó cũng chịu sự biến hoại vô thường không kém.Hòn núi kia khi chúng ta chưa sanh nó đã có, đến khi chúngta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng ta tưởng hòn núi đó là thường;cho đến của cải vật chất, nhà cửa chúng ta cũng tưởnglầm như thế. Vì tưởng lầm nên chúng ta quay cuồng trongvòng điên đảo, đem cái tâm tham, sân, si để giành giựtlấy những gì chúng ta cho là quý, là thường, là chân thật,nên mới gây ra biết bao đau khổ xấu xa, thậm chí đôi lúccòn giành giựt nhau từng đồng bạc, từng chút địa vị,từng lời ăn tiếng nói, từng bước đi, từng cử chỉ...Ðến như cái thân của chúng ta do tứ đại (đất, nước,gió, lửa) hợp thành, do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,thức) cấu tạo nên, từ khi cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắmmắt lìa đời, không biết bao nhiêu lần biến chuyển đổithay cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta cũng thay đổitrong từng giờ, từng khắc mà chúng ta không hay, không biết.

Thân thể của mọi người đềuvô thường như thế - Ðôi lúc chúng ta cũng biết như thế,nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong thân của chúng ta tồn tạimãi mãi, tại vì lòng tham, chấp ngã, nên chúng ta thấy "ta"là quý hơn tất cả mọi người, chỉ có "ta" mới đáng đượctrọng vọng, khen ngợi, còn người khác thì không nên trọngvọng, khen ngợi. Chính là vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganhtỵ, tham lam của chúng ta mà ra.

Vả lại trong ta có những lúc tham,lúc giận, lúc si, nhưng cũng có những lúc từ bi, hỷ xả,tâm muốn bố thí giúp ích mọi người. Vậy nếu nói lúctham là ta và lúc giận, lúc si, lúc bố thí, lúc từ bi, hỷxả cũng là ta; thế thì, chính trong một bản thân ta hóa racó không biết bao nhiêu cái ta. Thử hỏi trong những cái tađó cái nào đích thực là ta? Khi ta tham lam thì cái tham đóthật là ta; khi ta giận, cái giận đó thật là ta, hay khi takiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn, tật đố đó là ta? Nếunói tham là ta thì ta sẽ là con người tham mãi không bao giờthay đổi được! Nếu nói kiêu mạn, tật đố là ta, thìkiêu mạn tật đố không bao giờ thay đổi được! Nhưng không,dù có kiêu mạn, tật đố nhưng khi biết tu hành, phá trừkiêu mạn, sống một cách khiêm tốn, thì có thể thay đổiđược. Dù tham lam nhưng nếu hiểu được đạo lý thì cũngcó thể chuyển đổi được lòng tham lam ra lòng bố thí.

Rõ ràng, tâm của chúng ta luôn luônthay đổi, thân thể của chúng ta cũng thay đổi không ngừng,không có lúc nào thật là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tựnghĩ ta đây là ta, thì lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi.Bởi vì trong lúc ta nói ta đây, thì chính ảnh tượng mà tatưởng là ta đó cũng đổi khác đi rồi. Tâm hồn ta giờnày không còn như giờ phút trước. Cho nên, vừa mới mởmiệng nhắc đến cái ta thì cái ta đó đã bay đi mất. Thếmà vì không hiểu, cho nên cứ đinh ninh rằng: "Ta đây, ta quýhơn tất cả, muốn được tất cả mọi người tôn trọng,khen ngợi, và tuyệt đối không ai được chê ta hết. Nhưngngược lại ta cũng không muốn tôn trọng và khen ngợi ai cả".Cái ta nó làm cho con người điên đảo, hẹp hòi như vậyđó.

Cho nên, chúng sanh đau khổ là vìvô ngã mà chấp là ngã, không ta mà chấp thật là ta. Ai biếtnhìn kỹ thân thể của mình, qua pháp môn "Bất tịnh quán"như đức Phật đã dạy thì sẽ thấy toàn thân chất chứanhững đồ bất tịnh, nếu bỏ lớp da ngoài thì ai cũng dơbẩn như ai. Cái bất tịnh ấy đã có từ trong bào thai, vàkhi lọt lòng mẹ cũng đã bất tịnh rồi. Dù được trangđiểm bao nhiêu cũng chỉ là cái thân bất tịnh, cho đếnkhi nhắm mắt tắt thở, nó cũng là bất tịnh. Ðối vớicái thân bất tịnh này rõ ràng như vậy mà chúng ta khôngnhận thấy; ngược lại còn chấp cái thân này là tịnh, nênnâng niu, chiều chuộng, trau chuốt nó quá đáng. Vì mù quángđối với thân vô thường, lại cho là thường nên con ngườiluôn luôn đau khổ vì nó.

Ngày xưa có nàng Liên Hoa Sắc, khinghe đức Phật dạy về đạo lý vô thường, rằng thân thểbất tịnh, chúng sanh bất tịnh, hữu tình bất tịnh, thìcô ta liền phát tâm muốn đi tu. Nhưng trên bước đườngđi tu ngang qua một dòng sông, cô xuống sông rửa mặt, nhìnthấy bóng mình dưới nước có gương mặt quá đẹp, cô nghĩthầm: "Mình đẹp như thế này mà đi tu thì uổng quá!" Côbèn quay trở lại. Bạn bè gặp cô trở về bèn hỏi: "Tạisao trước kia chị phát tâm dõng mãnh, muốn đến đức Phậtđể cầu xin xuất gia, tu hành, bây giờ chị lại thối chítrở lui là thế nào?" Cô ta trả lời rằng: "Ôi! Tôi đẹpquá như thế này mà đi tu làm gì cho uổng!" Họ hỏi: "Vậychị đẹp như thế nào?" Cô ta trả lời: "Tôi soi mặt dướinước thấy cái bóng của tôi phản chiếu dưới đó, hếtsức là đẹp".

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấyrằng: Cái đẹp của cô ta chỉ là cái đẹp phản chiếu lạilòng tham đắm xác thân chứ đối với người khác chưa chắcđã đẹp, và đôi với loài cá dưới nước khi thấy bóngcô ta thì phải chạy trốn xa. Cô ta thấy cái bóng mình dướinước cho là đẹp, vì nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờnó đang xấu, đang hủy hoại từ từ mà cô ta không biếtkhông hay!

Cho nên trong kinh Xà Dụ, đức Phậtdạy:

"Này các Tỷ-kheo, sắc làthường hay vô thường? Bạch Thế Tôn, vô thường. Cái gìvô thường là khổ hay lạc? Bạch Thế Tôn, khổ... Do vậynày các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các ngươi, hãy từbỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ngươi."
Trong bốn sự thật mà đức Phậtdạy, sự thật đầu tiên là khổ (dukkha). Ngài nói cuộc đờidù có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc khôngthoát ly sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biếtbao nhiêu cái khổ trong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ.Ðó là cái khổ thường tình ai cũng nhận thấy, cái khổtự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không aitránh khỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã khôngcất ba tiếng khóc oa oa oa khi mới lọt lòng. Nếu một ngườibịnh không khổ thì họ đã không rên xiết. Người già khôngkhổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một ngườichết không khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanhkhổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ là một sự thật hiểnnhiên mà đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đócòn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, nhữngngười mình thích, những đồ vật mình ham muốn tưởng rằngđó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền vớimình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vìluật vô thường, những thứ đó nó rời khỏi tầm tay, khôngcách gì cầm giữ lại được. Ðó chính là ái biệt ly khổ.

Ðối với những người, nhữngvật mình ghét, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránhđược; mình muốn lờ đi nhưng nó cứ hiện ra trước mặt.Trên một con đường, ai cũng muốn đi trên con đường sạchsẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai muốn đi trên con đườnglầy lội, đầy gai góc hiểm độc ấy, muốn tránh nhưng bướcđâu vướng đó, muốn né nhưng đi đâu vấp đó. Ðối vớisự vật bên ngoài đã vậy, còn đối với người xung quanh,có người ta ưa thích, nhưng cũng có người ta ghét, ta khôngưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng ở giữa hai cái ưa và khôngưa đó cũng tạo nên một cảnh ghét mà phải gặp là khổ,cho nên tục ngữ ta có câu: "Ghét của nào trời trao của ấy".Bên này oán bên kia và bên kia oán bên này. Một khi đã oánnhau như vậy thì vũ trụ bao la trở thành thu hẹp lại mộtgóc. Gặp một người oán ghét ta muốn tránh, nhưng tránh hoàiđến nỗi hết muốn gặp mà cũng không sao tránh được. Vũtrụ bao la trong giờ phút này trở nên chật hẹp đến nỗita tưởng nó không còn một chỗ an toàn cho ta dung thân. Ðólà cảnh oán tắng hội khổ. Cảnh này nếu nằm trong gia đình,trong thân tộc, trong bản thân của mỗi người thì lại càngkhổ hơn nữa.

Chúng sanh luôn luôn nuôi dưỡnglòng tham muốn và mong cầu, đối với cuộc đời này họchưa một lần biết đủ, cảm thấy mình như một ngườithiếu thốn, họ tìm đủ mọi cách để ôm trọn thế giannày. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người thật ngắn ngủi,một trăm năm không đủ bề dày thời gian để làm thỏa mãnlòng tham của họ, vì vậy họ chịu khổ đau suốt đời vìham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu, gọi là cầubất đắc khổ.

Dẫu có người cho rằng đời còncó nhiều thú vui chứ đâu phải khổ hết. Coi xi-nê, coi hát,bài bạc, rượu chè cũng vui, trúng số độc đắc hay làmquan cũng vui. Ðức Phật không phủ nhận điều đó, nhưngNgài nói: Cái vui đó là cái vui mong manh trong đau khổ, cáivui còn vướng trong vô minh nghiệp chướng đưa đến khổđau càng sâu dày thêm. Cho nên có một nhà thơ Việt Nam viết:

"Bể khổ mênh mông nướcngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyềnchơi,

Thuyền ai ngược gió ai xuôigió,

Ngẫm lại cùng trong bể khổthôi".
Ngược gió hay xuôi gió, chiếc thuyềncũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lên trên biểnđược. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luânnày là cái vui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cáivui giải thoát. Do thế, đức Phật nói đời là đau khổ,mặc dù chúng sanh cho đời là vui, rồi say đắm theo đời,không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đóphải nhắm mắt tắt thở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổđau!

Nếu biết đem toàn tâm lực an trútrong Chánh pháp thì sẽ nhận rõ lời đó của đức Phật:tất cả sự vật là vô thường, chúng sanh là vô ngã, thânthể là bất tịnh, mọi sự lãnh thọ đều là khổ: dù làthọ khổ hay thọ vui, cũng đều ở trong vòng tương đối.Ðã ở trong vòng tương đối thì có sanh diệt, có sanh diệttất nhiên lòng chúng ta không thỏa mãn, nên sanh ra đau khổ.Ðức Phật vì đại sự nhân duyên đó mà ra đời, để chuyểnmê khai ngộ cho chúng sanh. Mục đích tu hành của người tuPhật là để chuyển nghiệp. Ngài dạy rằng: "Nghiệp dắtthế gian tới, nghiệp kéo thế gian đi, thế gian chuyển theonghiệp, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe". Con vật kéoxe đi vào trong con đường tối tăm mù mịt thì bánh xe cũngphải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp cũng tương tự nhưthế. Mỗi người đều có những nghiệp riêng, nghiệp tốtthì làm cho con người tốt, nghiệp xấu thì làm cho con ngườixấu, nghiệp cao thượng thì trở thành con người cao thượng,và nghiệp thấp hèn thì trở thành con người thấp hèn. Tấtcả đều do nghiệp. Nghiệp là bào thai, nghiệp là sở hữu,cho nên khi sanh ra, khi chết đi, ta cũng chỉ một mình đi theonghiệp chớ không có ai đi theo ta hết. Không ai thay thế tađể đi theo trong khi ta sanh, già, bịnh, chết với cái nghiệpcủa ta mà thôi. Cái nghiệp luôn luôn đi theo ta như bóng theohình. Những người tạo nghiệp lành thì có những ngườibạn lành cùng đi theo. Những người tạo nghiệp dữ thì cónhững kẻ oan gia thù hận đi theo. Người tạo nghiệp lànhthì như mang bình cam lồ đi đây đi đó. Người tạo nghiệpác thì như mang một bồ rắn độc bên mình, luôn luôn nơmnớp sợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật dạy, con người làdo nghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy: "Con thiên nga chỉbay được giữa hư không, người có thần thông chỉ bay đượckhỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí, đại hạnh dứt sạchnghiệp luân hồi mới bay được khỏi thế gian này" (PhápCú 175).

Bay khỏi thế gian này tức giảithoát, tự tại. Nên con người tu hành là để chuyển nghiệp.Chuyển nghiệp xấu thành tốt, vô minh ra giác ngộ, trầm luânra giải thoát. Tóm lại, chuyển cái nghiệp của chúng sanhra cái nghiệp của chư Phật, Thánh, Hiền. Khi chuyển nghiệpđược rồi thì chính cái nghiệp đó nó trở thành một tòalâu đài để nâng đỡ chúng sanh, giúp cho chúng sanh đượcan vui, giải thoát...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/09/2012(Xem: 5199)
Thế kỷ 21 đang chứng kiến nhiều đổi thay lớn lao trong những phát kiến khoa học. Xã hội phương tây ngày càng hướng về đời sống vật chất, hưởng thụ nhiều hơn. Đời sống tâm linh, đời sống Tôn giáo ngày càng như xa lạ đối với giới trẻ, thành tố cho một phạm trù cộng đồng nhân loại mới. Khi một xã hội, mà con người chỉ lo tìm cách giành dựt lợi nhuận, dối trá trong cư xử và tàn bạo trong cuộc cờ “mạnh được yếu thua”
21/09/2012(Xem: 11016)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
18/09/2012(Xem: 10445)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
14/09/2012(Xem: 19778)
Thế giới đang sử dụng Thiền như thức ăn như nguồn sống không thể thiếu trong cuộc đời thường. Ngay ở nước Mỹ, quốc gia tân tiến bậc nhất về khoa học kỹ thuật cũng đã áp dụng Thiền như một phương thuốc trị liệu tâm lý.
14/09/2012(Xem: 6767)
Tất cả những pháp môn tu chỉ nhằm chuyển hóa tâm thức, vì chỉ có chuyển hóa tâm thức. Nhìn trên căn bản, mỗi người tu Phật cần thực hành hai phương diện. Thứ nhất, hành giả phải có khả năng rút khỏi xã hội một thời gian nhất định nào đó, có thể vài giờ, vài ngày, vài tháng hoặc vài năm... Thứ hai, có khả năng đem những kinh nghiệm từng trãi nơi tịnh tu vắng vẻ cống hiến lại cho cuộc đời, cho những người hữu duyên và cho chính cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta. Như hơi thở ra và hơi thở vào, cả hai đều cần thiết như nhau. mới phổ độ chúng sanh một cách chân thật.
14/09/2012(Xem: 6848)
Mấy năm trước, nhân dịp Đức Dalai Lama đến thăm thung lũng Lahoul nơi chúng tôi tu tập ở Ấn Độ; lúc đó Ngài trú lại một tuần để thăm viếng, ban lễ điểm đạo và giảng pháp. Sau buổi thuyết pháp dài mấy tiếng đồng hồ, tôi hỏi một phụ nữ Lahoul rằng: “Bác có biết Đức Dalai Lama giảng gì không?”. Bác gái trả lời: “Dạ, con không hiểu nhiều nhưng con biết Ngài giảng là, nếu ta có lòng từ bi thì đó là điều tốt”. Đúng vậy, cơ bản là như thế. Đâu có gì đáng nói hơn thế nữa phải không? Nếu chúng ta có lòng từ bi, điều đó không tốt lắm sao? Vậy từ bi nghĩa là gì?
12/09/2012(Xem: 4805)
Đã có một trong những sự phát triển sâu xa , xuất hiện từ thế kỷ 20 , tác động đến đời sống của hàng tỷ người , nhưng vẫn chưa được chú ý rộng rãi . Bên cạnh những biến đổi đầy ấn tượng về chính trị và xã hội , những phát triển về khoa học và công nghệ , cùng những hệ thống mới trong lãnh vực vận tải và truyền thông , các sử gia tương lai chắc chắn sẽ quan tâm đến sự tự do tương đối . Họ sẽ nhận thức rằng chính sự tự do tương đối đã trước hết diễn dịch rồi sau đó định hình cho cá tính của từng con người ; cuối cùng mang lại quyền tồn tại cho loài người . Tuy những yếu tố quen thuộc tạo nên tự ngã , như là tính cách sắc tộc , khu vực định cư , dòng dõi , gia đình …vẫn hiện diện , nhưng những yếu tố đó không còn quan trọng vì một chuỗi những yếu tố độc đặc mới xuất hiện trong thế kỷ 20 . Cho nên khi đã hoàn toàn chấp nhận các ý niệm dân chủ tự do như một bản chất thực nghiệm làm nền để xác định ý nghĩa của việc làm người , hiếm khi chúng ta xem xét những ý niệm đó đã làm biến đổi hình th
12/09/2012(Xem: 5746)
Phật giáo Đại thừa có rất nhiều Thần chú như Chú Đại Bi, chú Thủ Lăng Nghiêm, chú Chuẩn đề… mà Thần chú chỉ có trong Mật tông. Vậy lịch sử hình thành Mật tông như thế nào?
11/09/2012(Xem: 5169)
Người Phật tử khi đã hiểu đạo thì phải lấy hạnh khiêm tốn làm đầu, phải biết khiêm tốn thấp mình thưa hỏi đạo lý thì mới học được điều hay lẽ phải mà biết được cội nguồn của giác ngộ, giải thoát. Người Phật tử phải nên nhớ rằng muốn mình thật sự khiêm tốn thì ngay bước đầu chúng ta phải tập nhẫn nhịn đối với những việc trái ý nghịch lòng, nhẫn không có nghĩa là hèn nhát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567