Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Vô vi cư điện các

17/11/201017:07(Xem: 8134)
4. Vô vi cư điện các

VÔVI CƯ ÐIỆN CÁC

Phật giáo là ánhsáng. Ánh sáng của Phật giáo là từ bi, trí tuệ. Ánh sángấy soi rọi lòng người, phá tan màn vô minh, vị kỷ, tậtđố, tham sân si, để cùng nhau tạo lấy một cuộc sống anvui hạnh phúc và xây dựng đức tính tốt đẹp: đức tínhvô ngã vị tha.

Ánh sáng củaPhật giáo đã lantruyền hầu khắp các nước Châu Á và ngày nay nó đã lantruyền qua các nước Châu AÂu, Châu Mỹ, Châu Úc, Châu Phi...

Ánh sáng của Phật giáo đã đếnnước Việt Nam từ thế kỷ thứ I và đã hòa nhập vào lòngdân tộc, cùng dân tộc Việt Nam tạo nên những trang sử oanhliệt, mang lại độc lập, tự do và hạnh phúc vững vàngcho đất nước. Trong lịch sử Việt Nam, các vị Thiền sưcủa Phật giáo luôn luôn có mặt, gắn bó với các triềuđại: nhà Lê, nhà Ðinh, nhà Lý, nhà Trần... Trong đó có nhữngvị Thiền sư mà bất cứ một người viết sử Việt Nam nàocũng không thể bỏ qua được. Chính lúc Lê Ðại Hành ởngôi đã có nhờ thiền sư Ngô Chân Lưu, Ðỗ Pháp Thuận...là những vị Thiền sư bác học, đạo đức cao thâm cùngchung giúp sức, cố vấn, cho nên khi vua Lê Ðại Hành hỏiThiền sư Ðỗ Pháp Thuận rằng "Vận nước hiện nay như thếnào?". Thiền sư Ðỗ Pháp Thuận liền trả lời:

"Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh" [*]
Tạm dịch:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở Thái bình

Vô vi trên điện các

Xứ xứ hết đao binh

(Lê Mạnh Thát dịch)

[*] Vận nước như dây quấn
Trời Nam ôm thái bình

Ðạo đức ngự cung điện

Muôn xứ tức đao binh (NguyễnLang – Sử luận I, tr. 146)

Nghĩa là: "Vận nước ngày nay nó vữngchắc như dây quấn, trời Nam mở thái bình, vô vi ở trênđiện các, nơi nơi bặc hết đao binh".

Chữ "Vô vi cư điện các" này phảihiểu: Vô vi không có nghĩa là không làm gì hết, nhưng cónghĩa là làm mà không có tư dục, không có tư tâm. Không nhữngthế, chữ vô vi trong đạo Phật khác với chữ vô vi trongđạo Lão. Ðạo Lão nói đạo là thường hằng tự nhiên,không có danh, không thể nói. Muốn được an thì cứ thảtâm tự nhiên theo đạo, không tác vi gì cả, chữ vô vi trongđạo Phật là dịch từ chữ Phạn "Asamskrita", có nghĩa làkhông tạo tác, chỉ cho pháp lành thường trụ không do nhânduyên tạo tác, không có sanh diệt biến hoại, khác với pháphữu vi là pháp do nhân duyên tạo tác, có sanh diệt biến hoại,nên pháp vô vi chính là một tên khác của Niết-bàn. Như trongluật Tứ phần, đức Phật Tỳ-bà-thi dạy: "Nhẫn nhục đệnhất đạo, Phật thuyết vô vi tối..." nhẫn nhục là hạnhtu cao nhất, Niết-bàn là đạo tối thượng. Niết-bàn làtịch tịnh vô vi an lạc, ngoài mọi vọng tình tà kiến chấptrước. Như kinh Ðại nhật phẩm Trụ tâm nói: "Bồ-tát vìchúng sanh trong pháp giới, không từ mệt nhọc, thành tựuan trụ học giới vô vi, xa lìa tà kiến, thông đạt chánhkiến". Hay "thâm quán pháp tánh vô vi, hoặc sanh hoặc pháp(tức hoặc chấp thật có ngã, thật có pháp) đều vô sởđắc". Chính trong tinh thần vô sở đắc đó, kinh Kim cang dạyrõ: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" là hãy đừng trụ vàotướng gì cả mà sanh tâm bố thí, trì giới v.v...

Như vậy, chữ "vô vi" trong đạoPhật đâu có nghĩa là không làm gì hết, trái lại vô vi làlàm tất cả những gì thuận với pháp tánh, Niết-bàn, chânnhư, theo đó không có chút ý tưởng chấp ngã, chấp nhân,chấp pháp... Ngồi ở ngôi cao cai trị muôn dân với một tinhthần vô vi, vị tha trị nước, không có tư dục, không cótư tâm, tất nhiên nước sẽ yên, dân sẽ bình, không có nhữngsự rối rắm và không có giặc giã nổi lên.

Lão Tử nói: "Bất quí nan đắcchihóa, sử nhân bất đạo", người ở ngôi cao mà không thèmquí những vật khó kiếm được, thì dân sẽ học theo đómà không sanh tâm trộm cắp.

Với cái nghĩa như vậy nó gắnliền với lịch sử, gắn liền với Thiền sư Ðỗ Pháp Thuận,với Lê Ðại Hành. Thế nhưng, tiếc thay cho đến ngày hômnay, cũng có những vị học giả cắt nghĩa rằng:

"Vận nước như dây quấn
Nam thiên mở thái bình

Không làm gì ở điện các

Nơi nơi dấy đao binh"
Từ một nghĩa này lật ngược lạithành một nghĩa khác. Từ nghĩa vô vi như vừa nói lại bảolà không làm gì hết, cho nên từ "tức đao binh" là dứt hếtđao binh lại bảo là "dấy đao binh", và nếu như các nghĩasai lầm đó mà tiếp tục được nhận định, được cắtnghĩa, thì tất nhiên lịch sử Việt Nam sẽ bị giải thíchmột cách sai lệch. Trong thời Lê Ðại Hành độc lập mànói rằng, một vị Thiền sư đã từng giúp cho Lê Ðại Hànhđánh Tống bình Chiêm giữ ngôi, giữ nước mà nói không làmgì ở điện các, nơi nơi dấy đao binh, cắt nghĩa như thếlà đã đi ngược lại lịch sử. Cắt nghĩa như thế chẳngnhững đã không hiểu Phật giáo mà còn cố tình làm sai lệchlịch sử Việt Nam. Do đó cho nên các nhà nghiên cứu Phậthọc Việt Nam cần phải khai mở tất cả những gì khuấtlấp, những gì bị che đậy, hầu làm sáng tỏ những trangsử vẻ vang mà Phật giáo đã đóng góp và xây dựng cho đấtnước. Khi đã khai mở tất cả những sự khuất lấp đóđể cho Phật giáo được phát huy, cùng nhau xây dựng đấtnước thì đó là một công trình, một việc làm hết sứcthích đáng.

Giáo lý của đức Phật vô cùngthậm thâm, nhưng không có nghĩa là hư huyễn, ảo tưởng.Cái vô cùng thậm thâm đó ở chính trước mắt, chính ởbên tai, chính ở trong hành động của chúng ta hằng ngày.Cái vô cùng thậm thâm ấy nó chuyển hóa lòng người, làkim chỉ nam cho các vị Thiền sư khi cần bảo vệ Phật phápvà đất nước thì họ hy sinh tính mạng của mình mà khôngbiết tự ngã.

Nhìn bên ngoài, đọc những câukinh Phật có lắm người chê. Chê rằng: các ông thầy chỉbiết chuông mõ, đọc lên những câu kinh Phật, thấy rõ cảmột hơi tiêu cực, yếm thế, bi quan! Thế nhưng họ quên đirằng tại sao lại có những vị Thiền sư yêu đạo yêu đờinhư Ngô Chân Lưu, Ðỗ Pháp Thuận, như Vạn Hạnh đến thế!Làm sao lại có những vị đã hy sinh cao cả, đã đem lạivinh dự không những cho Phật giáo Việt Nam mà còn làm vinhdự cho dân tộc Việt Nam như Bồ-tát Thích Quảng Ðức đếnthế! Thế mới biết rằng đằng sau cái nhìn có vẻ tiêucực, Phật giáo có một sức mạnh vô cùng tích cực. Ðóchính là một câu hỏi mà ngày hôm nay cũng còn nhiều ngườiđang đặt ra và đang suy nghĩ về nó. Họ nói: không biếttại sao khi đọc trong kinh Phật, không thấy câu nào nói đếnyêu nước hết, chẳng có chữ nào nói đến Tổ quốc hết,thế nhưng tại sao lại có những vị Thiền sư lại làm nênviệc mà thiết tưởng trong chúng ta ít mấy ai làm được?Thế cho biết nơi mỗi con người chúng ta từ trong bản chất,theo như đức Phật gọi: "Tất cả mọi người đều có tínhPhật", cái tính Phật đó nó gồm đủ các nghĩa đại từbi, đại trí tuệ, đại giải thoát, đại hùng lực. Nhưngcái tính Phật đó đồng thời nó cũng bị những cái tínhchúng sinh như: tham, sân, si, ngã mạn, tật đố, hẹp hòi,nhỏ mọn, ích kỷ, che lấp. Khi đã bị những cái tiêu cựcđó nó che khuất, nên cái tính tích cực bị chôn vùi mà khôngphát triển ra được. Do đó phải đọc kinh, học kinh, tụngkinh để tiêu diệt tính tiêu cực tham, tiêu cực sân, tiêucực si, tiêu cực ngã mạn, tật đố... Khi mà những cái tiêucực đó đã tiêu đi thì tự nhiên tính tích cực bộc lộra, không cần nhắc tới nó cũng bộc phát.

Mặt trời vẫn sáng nhưng bị lànmây khuất lấp, khi làn mây tan đi thì mặt trời tự sáng,không cần đòi hỏi ánh sáng mặt trời thì mặt trời cũngtự sáng. Chính những điều đó đã cắt nghĩa cho chúng ta,giải đáp các câu hỏi: tại sao đọc những câu kinh Phậtthấy có vẻ bi quan yếm thế, nhưng đến khi làm những việctích cực thì rất lớn lao?

Trong thời đức Phật, Ngài cũngdạy cái đạo lý tương tợ như thế. Có những kẻ ngoạiđạo đến chỉ trích đức Phật rằng: "Ồ, ông Phật, ôngcứ đi truyền bá cái Ðạo phá hoại sự sống, truyền bácái Ðạo hư vô, người ta nói như vậy có đúng không thưaông?"- Ðức Phật trả lời: "Ðúng đấy! Ta truyền bá cáèạo phá hoại sự sống, nhưng là cái Ðạo phá hoại sựsống tham lam, phá hoại sự sống ích kỷ, phá hoại sự sốngtật đố và truyền bá cái Ðạo hư vô, nhưng là Ðạo hưvô tính xấu, hư vô hành động ích kỷ, hư vô hành độngphá hoại. Ðây chính là cái Ðạo ta truyền". [Tăng Chi,Phẩm thắng Tri Tham – HT. Minh Châu dịch]

Nếu như không nghiên cứu chúngta sẽ chấp chặt cái hư vô phá hoại đời sống, rồi chúngta cũng sẽ mang một cái lầm như các nhà ngoại đạo kia gánlên cho là lời dạy của đức Phật. Vì lẽ đó cho nên cầnphải có người nghiên cứu Phật học để phát huy cái caocả, phát huy cái sáng suốt, cái tinh hoa trong kho tàng giáolý đức Phật, để sửa sai những cái hiểu lầm, những cáihiểu không đúng, đã, đang và sẽ có hại đối với đạoPhật chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5184)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5606)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4465)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5018)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4603)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5303)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4799)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9516)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4889)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4124)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]