Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Vô vi cư điện các

17/11/201017:07(Xem: 8457)
4. Vô vi cư điện các

VÔVI CƯ ÐIỆN CÁC

Phật giáo là ánhsáng. Ánh sáng của Phật giáo là từ bi, trí tuệ. Ánh sángấy soi rọi lòng người, phá tan màn vô minh, vị kỷ, tậtđố, tham sân si, để cùng nhau tạo lấy một cuộc sống anvui hạnh phúc và xây dựng đức tính tốt đẹp: đức tínhvô ngã vị tha.

Ánh sáng củaPhật giáo đã lantruyền hầu khắp các nước Châu Á và ngày nay nó đã lantruyền qua các nước Châu AÂu, Châu Mỹ, Châu Úc, Châu Phi...

Ánh sáng của Phật giáo đã đếnnước Việt Nam từ thế kỷ thứ I và đã hòa nhập vào lòngdân tộc, cùng dân tộc Việt Nam tạo nên những trang sử oanhliệt, mang lại độc lập, tự do và hạnh phúc vững vàngcho đất nước. Trong lịch sử Việt Nam, các vị Thiền sưcủa Phật giáo luôn luôn có mặt, gắn bó với các triềuđại: nhà Lê, nhà Ðinh, nhà Lý, nhà Trần... Trong đó có nhữngvị Thiền sư mà bất cứ một người viết sử Việt Nam nàocũng không thể bỏ qua được. Chính lúc Lê Ðại Hành ởngôi đã có nhờ thiền sư Ngô Chân Lưu, Ðỗ Pháp Thuận...là những vị Thiền sư bác học, đạo đức cao thâm cùngchung giúp sức, cố vấn, cho nên khi vua Lê Ðại Hành hỏiThiền sư Ðỗ Pháp Thuận rằng "Vận nước hiện nay như thếnào?". Thiền sư Ðỗ Pháp Thuận liền trả lời:

"Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh" [*]
Tạm dịch:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở Thái bình

Vô vi trên điện các

Xứ xứ hết đao binh

(Lê Mạnh Thát dịch)

[*] Vận nước như dây quấn
Trời Nam ôm thái bình

Ðạo đức ngự cung điện

Muôn xứ tức đao binh (NguyễnLang – Sử luận I, tr. 146)

Nghĩa là: "Vận nước ngày nay nó vữngchắc như dây quấn, trời Nam mở thái bình, vô vi ở trênđiện các, nơi nơi bặc hết đao binh".

Chữ "Vô vi cư điện các" này phảihiểu: Vô vi không có nghĩa là không làm gì hết, nhưng cónghĩa là làm mà không có tư dục, không có tư tâm. Không nhữngthế, chữ vô vi trong đạo Phật khác với chữ vô vi trongđạo Lão. Ðạo Lão nói đạo là thường hằng tự nhiên,không có danh, không thể nói. Muốn được an thì cứ thảtâm tự nhiên theo đạo, không tác vi gì cả, chữ vô vi trongđạo Phật là dịch từ chữ Phạn "Asamskrita", có nghĩa làkhông tạo tác, chỉ cho pháp lành thường trụ không do nhânduyên tạo tác, không có sanh diệt biến hoại, khác với pháphữu vi là pháp do nhân duyên tạo tác, có sanh diệt biến hoại,nên pháp vô vi chính là một tên khác của Niết-bàn. Như trongluật Tứ phần, đức Phật Tỳ-bà-thi dạy: "Nhẫn nhục đệnhất đạo, Phật thuyết vô vi tối..." nhẫn nhục là hạnhtu cao nhất, Niết-bàn là đạo tối thượng. Niết-bàn làtịch tịnh vô vi an lạc, ngoài mọi vọng tình tà kiến chấptrước. Như kinh Ðại nhật phẩm Trụ tâm nói: "Bồ-tát vìchúng sanh trong pháp giới, không từ mệt nhọc, thành tựuan trụ học giới vô vi, xa lìa tà kiến, thông đạt chánhkiến". Hay "thâm quán pháp tánh vô vi, hoặc sanh hoặc pháp(tức hoặc chấp thật có ngã, thật có pháp) đều vô sởđắc". Chính trong tinh thần vô sở đắc đó, kinh Kim cang dạyrõ: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" là hãy đừng trụ vàotướng gì cả mà sanh tâm bố thí, trì giới v.v...

Như vậy, chữ "vô vi" trong đạoPhật đâu có nghĩa là không làm gì hết, trái lại vô vi làlàm tất cả những gì thuận với pháp tánh, Niết-bàn, chânnhư, theo đó không có chút ý tưởng chấp ngã, chấp nhân,chấp pháp... Ngồi ở ngôi cao cai trị muôn dân với một tinhthần vô vi, vị tha trị nước, không có tư dục, không cótư tâm, tất nhiên nước sẽ yên, dân sẽ bình, không có nhữngsự rối rắm và không có giặc giã nổi lên.

Lão Tử nói: "Bất quí nan đắcchihóa, sử nhân bất đạo", người ở ngôi cao mà không thèmquí những vật khó kiếm được, thì dân sẽ học theo đómà không sanh tâm trộm cắp.

Với cái nghĩa như vậy nó gắnliền với lịch sử, gắn liền với Thiền sư Ðỗ Pháp Thuận,với Lê Ðại Hành. Thế nhưng, tiếc thay cho đến ngày hômnay, cũng có những vị học giả cắt nghĩa rằng:

"Vận nước như dây quấn
Nam thiên mở thái bình

Không làm gì ở điện các

Nơi nơi dấy đao binh"
Từ một nghĩa này lật ngược lạithành một nghĩa khác. Từ nghĩa vô vi như vừa nói lại bảolà không làm gì hết, cho nên từ "tức đao binh" là dứt hếtđao binh lại bảo là "dấy đao binh", và nếu như các nghĩasai lầm đó mà tiếp tục được nhận định, được cắtnghĩa, thì tất nhiên lịch sử Việt Nam sẽ bị giải thíchmột cách sai lệch. Trong thời Lê Ðại Hành độc lập mànói rằng, một vị Thiền sư đã từng giúp cho Lê Ðại Hànhđánh Tống bình Chiêm giữ ngôi, giữ nước mà nói không làmgì ở điện các, nơi nơi dấy đao binh, cắt nghĩa như thếlà đã đi ngược lại lịch sử. Cắt nghĩa như thế chẳngnhững đã không hiểu Phật giáo mà còn cố tình làm sai lệchlịch sử Việt Nam. Do đó cho nên các nhà nghiên cứu Phậthọc Việt Nam cần phải khai mở tất cả những gì khuấtlấp, những gì bị che đậy, hầu làm sáng tỏ những trangsử vẻ vang mà Phật giáo đã đóng góp và xây dựng cho đấtnước. Khi đã khai mở tất cả những sự khuất lấp đóđể cho Phật giáo được phát huy, cùng nhau xây dựng đấtnước thì đó là một công trình, một việc làm hết sứcthích đáng.

Giáo lý của đức Phật vô cùngthậm thâm, nhưng không có nghĩa là hư huyễn, ảo tưởng.Cái vô cùng thậm thâm đó ở chính trước mắt, chính ởbên tai, chính ở trong hành động của chúng ta hằng ngày.Cái vô cùng thậm thâm ấy nó chuyển hóa lòng người, làkim chỉ nam cho các vị Thiền sư khi cần bảo vệ Phật phápvà đất nước thì họ hy sinh tính mạng của mình mà khôngbiết tự ngã.

Nhìn bên ngoài, đọc những câukinh Phật có lắm người chê. Chê rằng: các ông thầy chỉbiết chuông mõ, đọc lên những câu kinh Phật, thấy rõ cảmột hơi tiêu cực, yếm thế, bi quan! Thế nhưng họ quên đirằng tại sao lại có những vị Thiền sư yêu đạo yêu đờinhư Ngô Chân Lưu, Ðỗ Pháp Thuận, như Vạn Hạnh đến thế!Làm sao lại có những vị đã hy sinh cao cả, đã đem lạivinh dự không những cho Phật giáo Việt Nam mà còn làm vinhdự cho dân tộc Việt Nam như Bồ-tát Thích Quảng Ðức đếnthế! Thế mới biết rằng đằng sau cái nhìn có vẻ tiêucực, Phật giáo có một sức mạnh vô cùng tích cực. Ðóchính là một câu hỏi mà ngày hôm nay cũng còn nhiều ngườiđang đặt ra và đang suy nghĩ về nó. Họ nói: không biếttại sao khi đọc trong kinh Phật, không thấy câu nào nói đếnyêu nước hết, chẳng có chữ nào nói đến Tổ quốc hết,thế nhưng tại sao lại có những vị Thiền sư lại làm nênviệc mà thiết tưởng trong chúng ta ít mấy ai làm được?Thế cho biết nơi mỗi con người chúng ta từ trong bản chất,theo như đức Phật gọi: "Tất cả mọi người đều có tínhPhật", cái tính Phật đó nó gồm đủ các nghĩa đại từbi, đại trí tuệ, đại giải thoát, đại hùng lực. Nhưngcái tính Phật đó đồng thời nó cũng bị những cái tínhchúng sinh như: tham, sân, si, ngã mạn, tật đố, hẹp hòi,nhỏ mọn, ích kỷ, che lấp. Khi đã bị những cái tiêu cựcđó nó che khuất, nên cái tính tích cực bị chôn vùi mà khôngphát triển ra được. Do đó phải đọc kinh, học kinh, tụngkinh để tiêu diệt tính tiêu cực tham, tiêu cực sân, tiêucực si, tiêu cực ngã mạn, tật đố... Khi mà những cái tiêucực đó đã tiêu đi thì tự nhiên tính tích cực bộc lộra, không cần nhắc tới nó cũng bộc phát.

Mặt trời vẫn sáng nhưng bị lànmây khuất lấp, khi làn mây tan đi thì mặt trời tự sáng,không cần đòi hỏi ánh sáng mặt trời thì mặt trời cũngtự sáng. Chính những điều đó đã cắt nghĩa cho chúng ta,giải đáp các câu hỏi: tại sao đọc những câu kinh Phậtthấy có vẻ bi quan yếm thế, nhưng đến khi làm những việctích cực thì rất lớn lao?

Trong thời đức Phật, Ngài cũngdạy cái đạo lý tương tợ như thế. Có những kẻ ngoạiđạo đến chỉ trích đức Phật rằng: "Ồ, ông Phật, ôngcứ đi truyền bá cái Ðạo phá hoại sự sống, truyền bácái Ðạo hư vô, người ta nói như vậy có đúng không thưaông?"- Ðức Phật trả lời: "Ðúng đấy! Ta truyền bá cáèạo phá hoại sự sống, nhưng là cái Ðạo phá hoại sựsống tham lam, phá hoại sự sống ích kỷ, phá hoại sự sốngtật đố và truyền bá cái Ðạo hư vô, nhưng là Ðạo hưvô tính xấu, hư vô hành động ích kỷ, hư vô hành độngphá hoại. Ðây chính là cái Ðạo ta truyền". [Tăng Chi,Phẩm thắng Tri Tham – HT. Minh Châu dịch]

Nếu như không nghiên cứu chúngta sẽ chấp chặt cái hư vô phá hoại đời sống, rồi chúngta cũng sẽ mang một cái lầm như các nhà ngoại đạo kia gánlên cho là lời dạy của đức Phật. Vì lẽ đó cho nên cầnphải có người nghiên cứu Phật học để phát huy cái caocả, phát huy cái sáng suốt, cái tinh hoa trong kho tàng giáolý đức Phật, để sửa sai những cái hiểu lầm, những cáihiểu không đúng, đã, đang và sẽ có hại đối với đạoPhật chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 19462)
Những người dân Tây Tạng thân mến của tôi, ở cả trong lẫn ngoài đất nước Tây Tạng, cùng tất cả những ai đang tu tập theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và những ai đang có những nối kết với Tây Tạng và người Tây Tạng.
10/12/2013(Xem: 19892)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 24957)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
10/12/2013(Xem: 9809)
Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành.
09/12/2013(Xem: 7031)
Gia đình nghèo kia có ba người: Bố – Mẹ – và Con trai. Họ sống âm thầm và bình lặng trong một thôn làng hẻo lánh, người Bố đi làm thuê để kiếm cơm gạo nuôi gia đình, người mẹ lo việc bếp núc, trồng mấy luống rau, và chăm sóc con. - Một buổi trưa hè nắng nóng, người mẹ trên đường từ chợ về nhà chợt nhặt được một trái cam ai đó đánh rơi bên đường, cơn khát và mệt nhọc dường như tiêu tan khi bà nghĩ đến miếng cam ngọt lịm và mọng nước. Nhưng nghĩ đến đứa con ngoan ngoãn chẳng mấy khi được ăn hoa trái thơm ngon, bà liền lau sạch trái cam và cất vào túi.
09/12/2013(Xem: 8732)
Giáo lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại những kết quả tốt đẹp...
09/12/2013(Xem: 8864)
Có thầy trò một nhà kia làm nghề hát xiệc. Người thầy là một người đàn ông góa vợ và người học trò là một cô gái nhỏ tên là Kathullika. Hai thầy trò đi đây đó trình diễn để kiếm ăn. Màn trình diễn của họ là người thầy đặt một thanh tre cao trên đỉnh đầu mình, trong khi bé gái leo dần lên đầu cây rồi dừng lại trên đó, để người thầy tiếp tục đi trên đất. Cả hai thầy trò đều phải vận dụng sự tập trung tâm ý đến một mức độ khá cao, để giữ thăng bằng và để ngăn chặn tai nạn có thể xảy ra.
09/12/2013(Xem: 8126)
Tự thủy uyên nguyên, khắp các loài chúng sanh cùng với Phật đồng một tâm, tức cái tâm tánh tuyệt đối, chơn thường, vắng lặng, trong trẻo, tròn đầy, trùm khắp, không lay không động, không đến không đi, không sanh không diệt, vô thỉ vô chung, cực linh cực mầu, hay sanh các pháp. Do Phật tâm thanh tịnh, vắng lặng, huyền mầu, nhưng lại khéo sanh vạn pháp, nên cổ đức mới tạm mượn lời mà đặt tên, gọi cái tánh huyền mầu đó là "chơn không diệu hữu", tức từ cái tánh linh diệu trong trẻo, không một vật mà pháp pháp tuỳ duyên trùng trùng sanh khởi.
09/12/2013(Xem: 8324)
Nguyện là mong cho, cầu mong cho, ước mong rằng… Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chính ta liền có được hạnh phúc. Tại sao như thế? - Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Khi ấy chúng ta xóa bỏ được, dù chỉ là tạm thời, sự phân biệt chia cách kiên cố giữa ta và người khác. Chính sự thoát khỏi những ràng buộc tiêu cực nặng nề này đưa chúng ta đến miền đất chung của hạnh phúc.
08/12/2013(Xem: 10870)
Bodh Gaya (Bihar), Ngày 3, tháng 12, năm 2013 – Lễ trùng tụng Tam tạng thánh điển quốc tế đã cử hành tại Bồ Đề Đạo Tràng thuộc tỉnh Bihar, Ấn độ. Hàng ngàn chư Tăng và Phật tử trên toàn thế giới đang tham dự buổi lễ này. Buổi lễ 10 ngày được tham dự bởi chư Tăng và Phật tử từ các quốc gia như Bangladesh, Căm bốt, Ấn độ, Nepal, Miến điện, Thái lan, Tích lan và Việt nam sẽ chấm dứt vào ngày 12 tháng 12 năm 2013.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]