Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đốt đồ mã là trái với lời Phật dạy

04/10/201213:40(Xem: 8030)
Đốt đồ mã là trái với lời Phật dạy

ĐỐT ĐỒ MÃ LÀ TRÁI VỚI LỜI PHẬT DẠY
Minh Hạnh Đức

dotvangma-minhhanhduc

Những năm gần đây, mặt hàng đồ mã lại có thêm nhiều loại mới, đáng chú ý nhất là ô-sin (người giúp việc) bằng giấy dùng để đốt cúng người thân quá cố.

Đốt ô-sin gởi xuống âm phủ để phục vụ cho vong linh, việc làm này gợi nhớ đến tục tuẫn táng, chôn sống hoàng hậu, cung tần mỹ nữ, người hầu, nô lệ theo các hoàng đế, quan lại ngày xưa sau khi họ chết, một tập tục phi nhân tính, phi đạo đức. Việc đốt ô-sin bằng giấy tuy không tàn nhẫn, dã man nhưng đó cũng là việc làm thể hiện sự thiếu đạo đức, thiếu tình người. Bởi hình tượng ô-sin là hình tượng một con người, một người có cha mẹ, có gia đình, tận tụy giúp việc, phục vụ cho chủ nhà… Tại sao người ta lại có suy nghĩ chôn người khác theo người đã chết để làm nô dịch cho người thân của mình, đó là một ý niệm bất thiện nếu không muốn nói là độc ác. Ở những gia đình có trẻ em, trong mắt bé thơ, trong suy nghĩ của trẻ nhỏ, ô-sin, bảo mẫu là người thân yêu, gần gũi, thân thiết như cha mẹ, có khi còn gần gũi hơn cả cha mẹ (đối với những gia đình mà cha mẹ ít thời gian dành cho con cái), thì việc đốt ô-sin (dù là bằng giấy) là một hành động nhẫn tâm khó giải thích cho trẻ hiểu khi chúng thắc mắc. Trẻ sẽ nghĩ gì trước việc làm đó của cha mẹ chúng.

Càng ngày càng có nhiều loại hình đồ mã mới xuất hiện, và người dân đổ xô mua về đốt cúng mà chẳng biết việc đốt cúng đó có giá trị ý nghĩa gì, có lợi ích gì cho kẻ còn người mất hay không, chẳng biết nguồn gốc, xuất xứ của việc cúng những loại đồ mã đó! Từ đó cho thấy sự mê tín của người dân không có chiều hướng giảm mà còn gia tăng. Việc tin rằng người cõi âm có thể sử dụng đồ mã thật hết sức si mê mù quáng. Bởi không ai biết gì nhiều về sự tồn tại của cõi âm và đời sống con người sau khi chết, không ai biết người thân mình sau khi chết đã đi về đâu, nhưng phần lớn người ta cứ tưởng tượng ra lắm điều và làm nhiều việc do mình nghĩ ra, kỳ thực những việc đó hết sức hoang đường.

Những người sử dụng đồ mã không tự hỏi: Trên thế giới có 195 quốc gia, nhưng bao nhiêu quốc gia có tập tục dùng đồ mã? Chỉ là con số tính đếm trên đầu ngón tay, trong đó chủ yếu là các quốc gia ảnh hưởng nền văn hóa Trung Quốc. Còn nhiều quốc gia khác trên thế giới không có tập tục đốt cúng đồ mã, vậy chẳng lẽ người thân của họ sau khi chết không có điều kiện sinh hoạt ở cõi âm hay sao? Không có cơ sở, bằng chứng nào cho biết người quá cố có thể sử dụng những đồ mã cúng tế đã bị đốt cháy thành tro bụi hoặc đã bị hoại mục khi chôn theo người chết.

Hiếm hoi có một vài trường hợp cho biết họ nằm mơ thấy người chết về báo mộng bảo họ đốt đồ mã hoặc vật dụng của họ lúc còn sống để cúng cho họ. Điều này cũng không có gì khó hiểu, khoa Tâm lý học, Phân tâm học có thể lý giải hiện tượng này. Đó chẳng qua là tâm lý nhớ tưởng, quan tâm lo lắng cho người quá cố về phương diện đời sống ở cõi âm mà người thân mộng thấy thế. Nhiều trường hợp đốt cúng đồ mã do sự lừa bịp, xúi bảo của những thầy bói, ông đồng bà cốt giả thần giả quỷ để tạo lòng tin vào những điều mê tín.

Theo lời Phật dạy thì con người sau khi chết, nhờ thiện nghiệp (phước nghiệp) mà sinh lên cõi trời, hoặc tái sinh trở lại làm người; do ác nghiệp (tội nghiệp) mà tái sinh làm loài súc sinh hoặc rơi vào loài ngạ quỷ (quỷ đói, cô hồn, hình thái các vong linh), hoặc đọa địa ngục nếu như khi còn sống tạo nghiệp cực ác. Tức là tùy theo nghiệp mà tái sinh, tồn tại dưới hình thái này hay hình thái khác. Đâu phải chết rồi cứ tồn tại mãi ở cõi âm nào đó để nhờ người thân cung phụng cúng kiếng cho ăn uống hưởng thụ. Mà những đồ mã bằng giấy như điện thoại di động, thẻ ATM, xe hơi, nhà lầu, tiền vàng, quần áo v.v… thì làm sao người ở cõi âm (nếu người chết chưa tái sinh, còn ở hình thái thân trung ấm hoặc tái sinh làm loài ngạ quỷ) sử dụng được. Cõi âm tất nhiên có đời sống khác cõi dương, hình thái chúng sinh ở cảnh giới nào thì có sự thọ dụng theo cảnh giới đó.

Theo Phật giáo thì người quá cố chỉ có thể thọ nhận thức ăn nước uống do người thân của mình cúng khi họ còn tồn tại dưới hình thái những thân trung ấm hoặc sau khi đã tái sinh dưới hình thái ngạ quỷ, nhưng mọi sự thọ nhận, thụ hưởng chỉ bằng tâm niệm, cảm xúc, chứ không phải ăn uống, thụ hưởng như người còn sống, bởi vì họ không còn mang thân xác như con người. Người quá cố cũng thừa hưởng được phần nào những công đức, phước báo mà người thân tạo ra và hồi hướng cho mình.

Người Phật tử nên có chánh kiến, chánh tư duy (có nhận thức, hiểu biết đúng đắn, tích cực; có suy nghĩ, sự quán xét trên cơ sở chánh kiến, phù hợp với chân lý, với sự thật, phù hợp với Chánh pháp), nên làm những việc làm có giá trị, ý nghĩa, có lợi ích thiết thực đúng với kinh điển, đúng với lời Phật dạy. Những việc làm có giá trị, ý nghĩa nhất mà người thân dành cho người quá cố là giúp người quá cố hướng tâm đến điều lành, phát tâm kính tin Tam bảo, hoan hỷ trước những việc làm phước thiện mà người thân làm cho mình. Người thân nên tích cực làm việc thiện, cúng dường Tam bảo, bố thí, phóng sinh, nỗ lực tu tập để hồi hướng công đức phước báo cho người quá cố.

Thiết nghĩ các cơ sở hoằng pháp, tự viện, các cơ quan truyền thông, báo chí Phật giáo nên có những cuộc tuyên truyền vận động rộng rãi hơn nữa về việc không đốt vàng mã nhằm mục đích bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, chống lãng phí, đem lại chánh kiến cho Phật tử và nhân dân, hướng mọi người đến với những việc làm tích cực, hữu ích thiết thực phù hợp với Chánh pháp. Cần phổ biến cho mọi người biết việc cúng tế đồ mã cho quỷ thần và người thân quá cố là tập tục của Đạo giáo, không phải là nghi lễ Phật giáo, là việc làm trái với lời Phật dạy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/07/2015(Xem: 7057)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn lan rộng đến mọi người chung quanh, như gia đình, bà con, dòng họ, bạn bè, và đôi khi, cả những thế hệ về sau. Đối với chúng ta khi ấy, quyết định đó chỉ là chuyện nhỏ, tầm thường. Nhưng nó thật ra là một quyết định có tính định mệnh trong giây phút đó.
23/07/2015(Xem: 12632)
Nhật báo của thành phố Neuss tường thuật về Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 27 Ngày 22.07.2015 Những Ngày Nghỉ Hè Được Dành Cho Đức Phật Khoảng 500 người Phật Tử Việt Nam đến từ Âu Châu gặp nhau 10 ngày tại Neuss. Chư Tôn Đức Tăng Ni cùng với tham dự viên của Khóa Phật Pháp Âu Châu lần thứ 27 thực tập giáo lý Phật Đà. Bài của ký giả Von Katrin Haas Thích Như Điển và Thị Chơn dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt
23/07/2015(Xem: 12190)
Quãng năm 2000 tôi may mắn được đọc cuốn sách quý “Năng đoạn kim cương” bằng tiếng Anh tại Sydney, Australia. Phải nói thật rằng, là người đang tìm hiểu về Phật giáo, nhất là mới đọc qua kinh Kim cương lúc bấy giờ, tôi rất yêu thích cuốn sách đặc biệt này. Để rồi, ngay khi rời tập đoàn FPT để lập ra công ty sách Thái Hà vào năm 2007, chúng tôi tìm mọi cách liên lạc với tác giả để mua bản quyền cuốn sách quý này để xuất bản tại Việt Nam. Năm 2008 sách chính thức xuất hiện và vào năm sau 2009, chúng ta có may mắn được đón Geshe Michael Roach và phái đoàn hơn chục giảng viên vào Việt Nam để có 2 buổi nói chuyện công chúng tại Thủ đô Hà Nội và TP HCM với sự tham dự của hơn 1.000 doanh nhân và các nhà tri thức. Và khi đó khóa thiền yoga 3 ngày ấn tượng đã diễn ra tại khu nghỉ dưỡng Ba thương, huyện Củ Chi mang lại lợi ích sâu sắc cho rất nhiều người.
23/07/2015(Xem: 11245)
Ni Sư Thubten Chodron (thế danh Cherry Green), sinh năm 1950, lớn lên gần vùng Los Angeles. Ni sư hoàn thành Cử Nhân Lịch Sử tại Đại Học UCLA năm 1971. Sau khi du lịch qua Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á trong khoảng một năm rưỡi, Ni sư trở về Mỹ, lấy chứng chỉ sư phạm, theo học chương trình sau đại học tại USC về Giáo Dục và dạy học ở Hệ Thống Các Trường tại thành phố Los Angeles. Năm 1975, Ni sư tham dự một khóa tu thiền của Ngài Lama Yeshe và ngài Zopa Rinpoche. Sau đó Ni sư qua Nepal tiếp tục tu học và hành thiền tại Tu Viện Kopan. Năm 1977, Ni sư được Ngài Kyabje Ling Rinpoche cho xuất gia tại Dharamsala, Ấn Độ, và năm 1986 Ni sư thọ đại giới tại Đài Loan.
22/07/2015(Xem: 5810)
Đạo Phật không phải là ngẫu nhiên luận rồi vô trách nhiệm đối với những hành vi của mình, hay cho rằng mọi chuyện rủi ro, may mắn, bất ngờ đều do bổng dưng, khi không, tự nhiên mà có. Khái niệm về số mệnh hay số phận là quan niệm của các trường phái triết học như Thần ý luận, Đa thần giáo, Túc mệnh luận, Định mệnh luận và Thiên mệnh.
20/07/2015(Xem: 12472)
" Vào thời mạt thế Nhân loại đảo điên, Tai họa liên miên Sóng thần Động đất. Chủ nghĩa vật chất Ngự trị thế gian,
20/07/2015(Xem: 9116)
Lòng nhân từ của cậu bé 5 tuổi Cậu bé Josiah Duncan, 5 tuổi đã làm khách tại nhà hàng rơi nước mắt sau khi mua cho người đàn ông bữa ăn và hát cho ông nghe.
17/07/2015(Xem: 7472)
Tôi xuất gia từ nhỏ, đã thọ giới Sa-di được bốn năm. Lúc nhỏ thì tôi không biết gì nhưng nay tôi phát hiện mình là người đồng tính nam (gay). Khi các bạn đồng tu biết tôi là gay, họ có vẻ kỳ thị và thường nhìn tôi bằng ánh mắt khác. Cuối năm nay, tôi sẽ được bổn sư cho đi thọ Đại giới, làm Tỳ-kheo. Tôi có nghe rằng người đồng tính nam như tôi thì không được thọ Đại giới. Vậy điều đó có đúng không? Trước đây, tôi có nghe những người như tôi không được thọ Đại giới nên đã nhiều lần có ý định hoàn tục nhưng vì tôi không đủ can đảm để tự quyết định. Bên cạnh đó, sư phụ, bố mẹ và các thầy trong chùa cũng rất kỳ vọng và thương yêu tôi, tôi sợ sẽ làm các vị ấy đau lòng. Hiện tôi không biết phải làm sao? Mong quý Báo hoan hỷ giúp tôi.
15/07/2015(Xem: 9457)
Hãy ngồi thẳng một cách thoải mái, không nghiêng về phía trước hay sau, trái hay phải. Hãy nhắm mắt lại, và hãy nghĩ với các niệm thiện lành. Những niệm thiện lành trước tiên là hướng về bạn, bởi vì nếu bạn không thể hướng niệm thiện lành về bạn -- nếu bạn không thể cảm thấy một khát vọng chân thực cho hạnh phúc riêng của bạn -- sẽ không có cách nào bạn có thể chân thực ước muốn cho kẻ khác có hạnh phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]