Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ lòng hiếu thảo của Rahula nghĩ về phẩm hạnh của con cái

27/08/201213:31(Xem: 9968)
Từ lòng hiếu thảo của Rahula nghĩ về phẩm hạnh của con cái
TỪ LÒNG HIẾU THẢO CỦA RAHULA
NGHĨ VỀ PHẨM HẠNH CỦA CON CÁI
Chúc Phú

Prince_Rahula_and_Buddha-chucphuTrước cuộc ra đi vĩ đại nhất trong lịch sử loài người của Bồ-tát Siddharttha, Yasodhara đã gạt lệ nhớ thương và đơn thân nuôi dưỡng Rahula ròng rã bảy năm trường trong cô đơn, khắc khoải. Với tình thương vô hạn của mẹ và sự giáo dưỡng chu toàn của ông nội Suddodhana theo phương cách của một hoàng nam mang dòng máu Sakya, Rahula bẩm thụ một khí chất đặc biệt so với những đứa trẻ đồng hàng. Trong những cốt cách riêng có của Rahula, đó chính là những phẩm chất đạo đức tự thân cũng như cách thức thể hiện lòng hiếu thảo đối với đấng sinh thành.

Cốt cách và lòng hiếu thảo của Rahula

Mặc dù chưa hình dung ra dáng vẻ của cha, nhưng khi được mẹ bảo rằng, bậc dẫn dầu đoàn Sa-môn hôm ấy chính là người cha khả kính đã biền biệt bao năm qua, Rahula đã vâng theo lời mẹ dạy một cách tuyệt đối và chạy đến cầu xin Đức Thế Tôn: hãy ban cho con phần thừa kế (dāyajja) 1. Khi được Đức Thế Tôn hứa khả và huấn thị ngài Sariputta đưa về tinh xá để làm lễ xuất gia, Rahula cũng tùy thuận nghe theo mà không hề có một chút phản kháng. Chi tiết này được các nhà chú giải kinh điển cho rằng, do lòng từ vô hạn của Đức Thế Tôn nên Rahula cảm thấy bóng che của Ngài thật an lạc2và đã an tâm đi theo Ngài, dù chỉ lần đầu gặp gỡ. Từ hiện thực cuộc sống, một đứa trẻ ngây thơ đứng trước người mới lần đầu gặp gỡ, tất sẽ e ngại, lúng túng đôi phần. Tuy nhiên, thái độ đĩnh đạc, dạn dĩ của Rahula khi xin cha của thừa kế đã minh giải rằng, sở dĩ Rahula thực hiện điều đó một phần là do nghe theo lời dạy của thân mẫu Yasodhara.

Từ ý thức chấp hành lời dạy của mẹ, của người lớn từ thuở bé, nên khi được sống chung với tập thể những người xuất gia, Rahula luôn vâng giữ những điều khuyên răn của các bậc trưởng thượng, mà ở đây là việc vâng giữ những giới điều do Phật chế định ra. Kinh điển và Luật tạng đều ghi lại rằng, một lần nọ, bị những vị khách tăng lớn tuổi chiếm dụng chỗ ngủ của mình, Sa-di Rahula không vì thế mà buồn lòng, bực bội, và đã an giấc qua đêm trong nhà vệ sinh của Đức Phật 3. Mãi đến khi trời gần sáng, Đức Thế Tôn cần sử dụng nhà vệ sinh mới phát hiện ra Sa-di Rahula nằm ngủ còng queo trên nền đất lạnh. Chứng kiến cảnh tượng đó, Đức Thế Tôn quả thực đã xúc động mạnh vì Chánh pháp4nên đã chỉnh lý bổ sung những thiết định giới luật đã ban hành trước đó 5. Không ỷ lại tình thống thuộc, thân quen, tuân giữ nghiêm túc những quy định về giới luật, tự chủ và giản đơn trong nếp sống, sinh hoạt của mình, là đặc thù riêng có của nhân cách Sa-di trẻ tuổi Rahula.

Với một đứa trẻ trong độ trưởng thành, thói quen nói dối dường như là một cố tật thường thấy trong sinh hoạt đời thường. Có nhiều lý do khiến trẻ nói dối: vì sợ trừng phạt khi phạm lỗi, vì muốn gây sự chú ý của người lớn, vì muốn tìm một sự dễ chịu, vì muốn đùa vui… khiến cho con trẻ thường nói dối. Là một đứa trẻ sinh hoạt trong Tăng đoàn, Sa-di Rahula nhiều lần phạm phải lỗi lầm này và đã gây ra điều phiền bực trong Tăng chúng hay những cư sĩ muốn được gặp Đức Thế Tôn. Đứng trước hiện thực này, Đức Phật đã khéo dẫn dụ hình ảnh thau nước bẩn và cái gương soi để giáo hóa Rahula. Một thau nước bẩn chỉ có thể đổ đi và không có thể dùng vào được việc gì; người nói dối cũng vậy. Cái gương soi phản ảnh lại tất cả những hành động, dung nghi của mình. Những điều không tốt thì nên tránh xa và những điều thiện pháp thì hãy nỗ lực thực hiện. Những nỗ lực của người cha - Đức Phật - đã được đền đáp, vì cuối cùng, Sa-di Rahula đã quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi6.

Thanh niên tăng Rahula ngày càng lớn lên trong sự giáo dưỡng của Đức Phật, ngài Sariputta và Tăng chúng. Đôi khi cùng thầy Sariputta ra phố khất thực, Rahula bị các thanh niên ngoại đạo chọc ghẹo nên mất kiểm soát và để sân tâm khởi lên. Quán sát được tâm tư của Tôn giả, Đức Phật đã khéo giảng dạy về hạnh tu nhẫn nhục theo tứ đại nhằm giúp Tôn giả vượt qua những trở ngại trong tâm. Lời dạy của Đức Phật không chỉ là bài học dành riêng Rahula mà còn là hạnh tu căn bản: Này Rahula, ví như trên đất người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ không tịnh, quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không dao động, hay không nhàm chán; cũng vậy, này Rahula, hãy tu tập như đất7. Với một thiếu niên Tăng, đôi khi lượng nội tiết adrenaline 8tăng lên đột biến theo sự phát triển của thể xác, thì sự quán niệm về thể tài vừa nêu giúp cho tâm tư bình an và không dao động trong khi va chạm với chuyện đời.

Từ những nỗ lực giáo dưỡng của Đức Phật, của ngài Sariputta và chư Tăng, Sa-di Rahula từng bước trưởng thành và chứng tỏ khả năng ham học hỏi. Sự thành tâm cầu thỉnh của Rahula đã được xác chứng trong kinh: Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con để sau khi nghe, con có thể sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần9. Nỗ lực cần cầu học hỏi của Rahula rất mạnh mẽ, đôi khi vì ham học mà quên cả việc khất thực thức ăn. Kinh điển ghi lại rằng, một sáng nọ từ tinh xá Jetavana, Rahula theo chân Đức Thế Tôn vào kinh thành Savatthi khất thực, đang trên đường đi, Đức Thế Tôn đã tùy thuận nhân duyên nên đã có bài thuyết giảng về giáo lý Vô ngã.Bài thuyết giảng đã thu hút Rahula chăm chú lắng nghe. Sau khi nghe xong, Rahula quyết từ bỏ chuyến đi khất thực mà trở về tinh xá với bụng đói meo, để kịp thời quán niệm về pháp hành vừa được Đức Phật chỉ dạy 10. Sự tinh cần, ham học ham tu của Rahula còn được các nhà chú giải kinh Trường bộcho rằng, suốt mười hai năm, lưng của Tôn giả Rahula chưa hề dính chiếu. Nhờ sự tinh cần đó, Rahula chứng đắc A-la-hán khi tuổi còn rất trẻ. Có nhiều tài liệu bất đồng về thời điểm chứng Thánh của Rahula, tuy nhiên, bằng chứng xác thực nhất là sau khi nghe Tiểu kinh giáo giới La Hầu La,số 147, thuộc kinh Trung bộthì tâm của Tôn giả Rahula được giải thoát khỏi các lậu hoặc.Và cũng nhờ đắc Thánh quả rất sớm nên ngay cả ma vương Vasavattì cũng không hù dọa được Tôn giả Rahula 11.

Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động. Chuyện tiền thân Đức Phật 12đã kể lại rằng, một lần Rahula đến thăm thân mẫu là Tỳ-kheo ni Bimbadevi, tên khác của Yasodhara sau khi xuất gia, thì được biết mẹ đang bị sình bụng, khó tiêu nên không ra tiếp chuyện được. Biết mẹ không khỏe nên Rahula lo lắng vô cùng. Rahula vào tận giường và thẽ thọt thưa rằng, nếu như khi ở hoàng cung, mỗi lúc gặp bệnh như vậy, mẹ sẽ uống thuốc gì? Bà Bimbadevi cho biết, mỗi khi bị bệnh chướng bụng đầy hơi thì thường uống nước xoài ép. Nhưng mà này con ơi, bà Bimbadevi nói thêm, làm sao có thể kiếm được thứ nước đó trong những món ăn khất thực hàng ngày của chúng ta? Sa-di Rahula cương quyết hứa với mẹ rằng: Con sẽ kiếm thứ ấy cho mẹ 13. Mạnh bạo hứa với mẹ như thế nhưng thâm tâm Sa-di Rahula lo lắng hoang mang, vì tìm đâu ra thứ thuốc chữa bệnh rất mực bình thường đó, với khả năng của một chú tiểu trẻ con? Sau nhiều nỗi băn khoăn, Rahula chợt nhớ đến sư phụ và đã cầu cứu ngài Sariputta. Thương đệ tử, Trưởng lão Sariputta đã vào cung vua Kosala và có được nước ép xoài trị bệnh. Nhận được nước ép xoài từ sự trợ giúp của sư phụ Sariputta, Rahula khoan khoái vô cùng vì đã tìm được thuốc chữa bệnh khó tiêu cho thân mẫu. Tình thương mẹ của Rahula không dừng lại ở đó, vì trong một lần khác, bà Bimbadevi lại bị bệnh đau bao tử, và cũng nhờ lòng hiếu thảo của Rahula nên sư phụ Sariputta lại một lần nữa đã gia tâm hỗ trợ, bằng cách giúp Rahula xin thức ăn phù hợp cho bà Bimbadevi 14.

Từ những nỗ lực của Rahula trong việc chăm lo cho thân mẫu bằng những gì có thể, đã cho thấy rằng, hiếu thảo với cha mẹ là đạo lý cơ bản của con người, bất luận xuất gia hay tại gia. Cũng từ đây đã mở ra cho những người mang thân phận làm con, những bài học lớn về việc rèn luyện những phẩm hạnh đạo đức cơ bản.

Phẩm hạnh đạo đức của con cái

Nghe lời cha mẹ

Là con cái, việc lắng nghe và tuân thủ những lời dạy của cha mẹ được xem là nguyên tắc sống đầu tiên trong cuộc đời. Vâng lời cha mẹ được xem là tín hiệu khởi đầu về việc xây dựng đạo đức, trí thức và niềm tin cho con cái. Nói cách khác, đạo đức của con người được khởi đầu từ sự nghe lời cha mẹ. Nhờ nghe lời cha mẹ, con cái tự tìm cho mình một cơ hội để tồn tại, để nhận ra những điều hay lẽ phải và để cho tri thức về tất cả các lãnh vực được củng cố, kiện toàn… Có thể nói, nghe lời cha mẹ là cửa ngõ mở ra con đường hạnh phúc cho con trẻ, không những ở hiện tại mà ngay cả tương lai. Với những bậc cha mẹ, vì yêu thương con trẻ, vì mong con thành công và vững chãi trong đời, mà đôi khi phải đóng vai trò như là một vị thần sáng thế, là hung thần dữ tợn, là thầy giáo đầy quyền uy… chỉ với mục đích duy nhất nhằm khiến cho con cái vâng lời. Bài học vâng lời mẹ một cách tuyệt đối của Rahula còn có ý nghĩa thời đại, vì lẽ, khi ý thức tự chủ của con trẻ chưa vững vàng thì sự hỗ trợ của các bậc cha mẹ trong việc khuyên răn con trẻ, bắt con trẻ vâng lời, là sự thể nghiệm đầu tiên về đạo đức.

Sống tự chủ và không ỷ lại

Nương tựa vào bản ngã và sở hữu của bản ngã là thói quen thường thấy đối với mọi chúng sanh trong hiện thực đời sống. Ý thức tôi làhình thành rất sớm và làm tiền đề để xuất hiện ý niệm chúng tôi là. Ỷ lại bản thân, dòng tộc, cha mẹ… là một dạng thức nương tựa vào bản ngã và sở hữu của bản ngã. Với Phật giáo, bản ngã vốn không thật thì sở hữu của chúng cũng là không.

Từ đây, có thể thấy thái độ ỷ lại các chỗ nương tựa vừa nêu là những trạng huống tâm lý tiêu cực nhưng dễ dàng xuất hiện và định hình trong tư duy con trẻ. Ngay như bản thân thiếu niên Rahula, mặc dù đã xuất gia nhưng đôi khi ngắm nhìn vóc dáng của mình và vóc dáng của thân phụ - Đức Phật - cũng nảy sinh suy nghĩ về nguồn gốc cao sang của gia đình mình. Đọc được suy nghĩ đó, Đức Phật đã huấn thị Rahula phải nuôi dưỡng ý thức: cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi 15, nhờ sự nuôi dưỡng ý thức đó, không những giúp cho Rahula mà còn cho bất cứ ai muốn thoát khỏi ảo tưởng về sự cao sang hay quyền quý của nguồn gốc gia đình, thân tộc.

Với con trẻ, thái độ ỷ lại xuất hiện ở bất cứ phương vị nào cũng là dấu hiệu không tốt. Một bậc cha mẹ phải tập cho con vượt qua sự ỷ lại bằng cách sống tự chủ trong từng việc làm nhỏ nhặt nhất như đi lại, uống ăn, thói quen trật tự, ngăn nắp… tùy theo từng giai đoạn phát triển và thể chất của đứa trẻ. Mặc dù là con của Đức Thế Tôn, là đệ tử của Đại Trưởng lão Sariputta, nhưng thiếu niên Rahula không bao giờ ỷ lại, thể hiện qua những việc làm cụ thể như tự mình đi khất thực, tự giặt giũ áo quần và tự tìm kiếm chỗ ngủ… là những bài học sống động dành cho con trẻ ngày nay về đức tính sống tự lập. Tính tự lập được hình thành từ bé là một lợi thế cho con cái khi dấn bước vào đời.

Nỗ lực học tập

Tri thức là chìa khóa mở ra nhiều cánh cửa quan trọng trong cuộc đời. Con đường tìm cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế đều có nhiều điểm liên quan đến tri thức nói chung. Có tri thức thì con đường dẫn đến hạnh phúc sẽ gần lại, nhất là những tri thức nội hàm an lạc và giải thoát khổ đau. Muốn có tri thức thì phải học tập, rèn luyện. Chiêm nghiệm về thái độ học tập quên cả việc đi khất thực của Rahula cho ta thấy một nỗ lực lớn trong hình hài bé nhỏ. Chính từ những nỗ lực này đã giúp Rahula chứng đạt Thánh quả khi còn nhỏ tuổi. Tài không đợi tuổi, như là một hệ luận rút ra từ trường hợp này. Từ cách thức giáo dục của cha mẹ cùng thái độ học tập của Rahula, có thể cung cấp cho việc giáo dục con trẻ hôm nay nhiều giá trị tham khảo.

Là con trẻ, có được một động cơ tốt trong học tập là khởi đầu thuận lợi, vì ham học hỏi được xem là tâm thế tốt cho mọi sự trưởng thành. Với con trẻ, phải làm sao thổi bùng được ngọn lửa khao khát sự hiểu biết trong chúng. Làm sao để con trẻ xem việc học tập như là thỏa mãn một sở dục thanh cao, làm sao để con trẻ tự thân nỗ lực mà không cần sự ép buộc, thôi thúc từ cha mẹ. Với con trẻ, sự khích lệ tưởng thưởng cũng là điều kiện cần. Tuy nhiên, tất cả mọi sự tưởng thưởng bằng hiện thực vật chất khi con trẻ thành công trong học tập, đôi khi cần phải cân nhắc cho phù hợp. Vì ở một nghĩa nào đó, chúng ta vô tình dung tục hóa cái mục đích tri thức thiêng liêng bằng những đắp đổi vật chất bình thường. Cần phải ý thức rằng, với độ tuổi thanh thiếu niên, thắp lên ngọn lửa quý chuộng tri thức, siêng năng học hỏi, là một dấu hiệu thành công trong giáo dục con trẻ.

Báo hiếu bằng những gì có thể

Thương cha mẹ được xem là thuộc tính tự hữu của con cái. Thuộc tính đó có khi ẩn tàng và đôi khi hiển lộ ra tùy thuộc theo nhân duyên, luân hồi và nghiệp quả. Hình ảnh chú Sa-di còn trẻ như Rahula đã nỗ lực hết mình nhằm tìm thuốc chữa bệnh cho mẹ, là một bài học lớn về lòng hiếu thảo của con trẻ hôm nay. Hiếu thảo là sự quan tâm đúng lúc, là sự thể hiện tấm lòng bằng tất cả những điều kiện khả dĩ của mình. Một cử chỉ săn sóc, một trăn trở miên man trong tâm, dù biết rằng rất khó thực hiện, cũng là những biểu hiện cho lòng hiếu thảo của con cái đối với các bậc sanh thành. Với con trẻ nói chung, hiếu thảo với cha mẹ có thể gói gọn trong bốn chữ: quan tâm đúng lúc.

Bát nước xoài của Rahula sẽ không nhiều ý nghĩa nếu như mẹ của Tôn giả không bị bệnh khó tiêu; chén cơm đầy của ngài Mục Kiền Liên sẽ không được lưu vào sử sách, nếu như mẹ ngài không sanh vào hàng quỷ đói. Quan tâm đúng lúc là con cái đáp ứng và thực hiện đúng yêu cầu của cha mẹ. Vì lẽ, các bậc cha mẹ xây dựng những chuẩn mực hiếu thảo hoàn toàn khác nhau. Với đứa con này thì chỉ cần sống có trách nhiệm với gia đình nhỏ của mình đã là hiếu thảo; với người kia thì đừng bê bết rượu chè là đã có hiếu lắm rồi. Không phải tất cả mọi nỗ lực phụng hiến cho cha mẹ bằng phẩm vật cao sang đều được xem là báo hiếu. Thể hiện tình thương với cha mẹ bằng khả năng và điều kiện của mình, trong những hoàn cảnh phù hợp, là những gợi ý tham khảo từ cách báo hiếu riêng có của Tôn giả Rahula.

Chú thích:

1. Maha Vagga,tập 1, chương Trọng yếu, Tụng phẩm thứ 9, Việc xuất gia Sa-di La Hầu La
2. Sách đã dẫn
3.KinhTiểu bộ,tập IV, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện con nai có ba cử chỉ, số 16
4. Kinh đã dẫn
5. Bikkhu Vibhanga 2, chương Pacittiya, Ưng đối trị, điều học thứ 5, đoạn 289
6. KinhTrung bộ,tập 2, Kinh giáo giới La Hầu La ở rừng Ambala, số 61
7. KinhTrung bộ, tập 2, Đại kinh giáo giới La Hầu La, số 62
8. Hoóc-môn do tuyến thượng thận tiết ra, làm tăng nhịp tim và huyết áp
9. Kinh Tương ưng, tập 2, chương 7, Tương ưng Rahula
10. Kinh Trung bộ, tập 2, Đại kinh giáo giới La Hầu La,số 62
11. Tích truyện Pháp cú, bản dịch của Viên Chiếu, phẩm Tham ái thứ 24, Ma vương chẳng nhát được La Hầu La.
12. KinhTiểu bộ, tập VI, chuyện Tiền thân Đức Phật,Chuyện trái xoài chính trung, số 281
13. Kinh đã dẫn
14. KinhTiểu bộ,tập VI, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện vua quạ Supatta, số 292
15. KinhTương ưng, tập 2, chương 7, Tương ưng Rahula, kinh Tùy miên

Chúc Phú
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16017)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3709)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6077)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6267)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3970)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8307)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5590)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15578)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10817)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7903)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]