Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nắng Hạ Sân Chùa

23/07/201207:42(Xem: 7168)
Nắng Hạ Sân Chùa

An Cu Chua Bat Nha (23)

Nắng Hạ Sân Chùa

Tác bạch Cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức Quang Lâm Chùa Bát Nhã - Ảnh: Hạnh Tuệ

Mùa An Cư Kiết Hạ năm nay được tổ chức tại Chùa Bát Nhã - Văn Phòng Của GHPGVNTNHK, Hòa Thượng Thích Nguyên Trí phát tâm bảo trợ. Cũng như những năm trước, đông đảo Chư Tôn Đức Tăng Ni vân tập về trường hạ An Cư tạo thành quang cảnh nhộn nhịp như đàn chim khắp bốn phương bay về tổ ấm. Người mang xách, kẻ kéo vali quay quần bên nhau thăm hỏi, vui mừng như ngày hội. Từ Ôn Thiền Chủ, Ban Chức Sự trường hạ cho đến quí Thầy Cô, Sa Di khu ô đuổi quạ, đều hiện rõ nét mặt vui tươi, hân hoan, chào đón bằng ánh mắt niềm nở, nụ cười tự nhiên, thanh thản. Nhiều chiếc xe đổ người trước cổng tam quan, ai cũng nhìn thấy câu biển ngữ nền vàng chữ đỏ:

"Tịnh Nghiệp Đạo Tràng An Cư Kiết Hạ"

Chừng ấy không thôi, cũng đủ thấy sự sum vầy đầy ý nghĩa. Sự vân tập của cộng đồng Tăng trên tinh thần hòa hợp, thanh tịnh. Sự vân tập bằng giá trị tự nguyện, phát tâm để được cùng cộng trú mà tu, mà học, mà tiến thân trên con đường giáo pháp Tam Vô Lậu Học của người xuất gia. Sự vân tập như là một biểu tượng cao quí, thánh thiện của người tìm về lẽ sống thật, sống chơn, sống an nhiên, tự tại giữa cuộc đời nhiều sự xô dạt của sóng cồn, trôi nổi mênh mang. Nơi đây cũng là hải đảo của tự thân, như là ngọn đuốc được thắp sáng do chính mình khơi dậy để soi rọi từng bước chân đi của người con Phật.

Lần đi vào sân chùa, trước mặt là một căn lều bằng tấm bạt màu xám trắng, được thiết trí làm chánh điện tạm trong thời gian an cư. Vì chánh điện Chùa Bát Nhã vốn dĩ đã chật hẹp cho những buổi lễ hằng tuần, bây giờ lại càng chật hơn cho mùa An Cư Kiết Hạ hơn 200 Chư Tôn Đức Tăng Ni, cũng như quí thiện nam tín nữ tham dự lễ quá đường mỗi trưa. Do vậy, Ban Chức Sự trường hạ, mà nhất là Hòa Thượng Hóa Chủ đã sử dụng mọi phương tiện, cho nhu cầu cần thiết.

Lần bước vào chánh điện tạm, nhìn về phía bức màng vải vàng được trang trí qua câu biển ngữ phía sau bàn thờ di ảnh Bồ Tát Thích Quảng Đức, và bốn chân dung của bốn đời Tăng Thống, ấy là:

"Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ

Lễ Tưởng Niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức Vị Pháp Thiêu Thân Lần Thứ 49

Truy Tán Công Hạnh Bốn Đời Tăng Thống GHPGVNTN"

Chân dung của Bồ Tát Thích Quảng Đức và Di ảnh của Đức Đệ Nhất Tăng Thống HT Thích Tịnh Khiết; Đức Đệ Nhị Tăng Thống HT Thích Giác Nhiên; Đức Đệ Tam Tăng Thống HT Thích Đôn Hậu; Đức Đệ Tứ Tăng Thống HT Thích Huyền Quang đã in sâu vào tâm khảm của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử, để từ đó cảm nhận mà chia sẻ được sự thăng trầm của dòng lịch sử Phật Giáo Việt Nam, mà nhân chứng thật hôm nay là bốn đời Tăng Thống của Giáo Hội.

Tuong_Niem_Bo_Tat_Thich_Quang_Duc__196_
Lễ Tưởng Niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức và 4 vị Tăng Thống GHPGVNTN- Ảnh: Hạnh Tuệ

Song song với căn liều chánh điện tạm, phía bên trái là trai đường, được trang trí màu sắc hài hòa, tăng thêm vẻ trang nghiêm bằng những câu đối mang hương vị giáo pháp. Từ phía trước huyền môn, ngước nhìn lên ấy là:

"Đường lên Thánh quả có phần

Cho người giới hạnh tinh cần tiến tu"

Từ trước nhìn vào, bàn trên của Chư Tôn Hòa Thượng Chứng Minh là hai câu đối:

"Bốn chúng an cư từng khắc tinh chuyên giới định tuệ

Mười phương kiết hạ mỗi niệm qui ngưỡng Phật Pháp Tăng."

Hai câu đồi ấy đã làm nổi bậc tấm biển ngữ chín giữa trai đường, mà cũng là câu biển ngữ chính:

"Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ

Tịnh Nghiệp Đạo Tràng An Cư Kiết Hạ

Chùa Bát Nhã - California. PL: 2556-2012"

Song song hai câu đối ở bàn trên, phía dưới trai đường của Đại chúng cũng có 4 câu đối khác đã nói lên được ý nghĩa và giá trị đích thực của khóa An Cư Kiết Hạ.

"Thượng tôn Giới Luật Tăng Ni đồng kiết hạ

Tuân thừa Chánh Pháp Giáo Hội tụ an cư."

"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài

Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân."

Nội dung của những câu biển ngữ, thật sự đã âm thầm, len lỏi vào từng mỗi tâm thức con người. Dù chẳng ai bảo ai, nhưng nó có một hấp lực để từ đó thấy được hạnh phúc của tự thân, thấy được sự bình an của một hội chúng, đã chung sống, chung tu, chung học và chung một lý tưởng của người xuất gia.

Từ đó, từ bên trai đường là ba căn lều lớn rộng. Nơi đây, là chốn ở của Chư Ni. Nơi "ăn chay nằm đất". Nằm sắp lớp trên những chiếc sleeping bags chẳng ai hơn ai, mà cũng chẳng ai thua ai, bình đẳng. Thật là tội nghiệp, bên ngoài trời nắng của mùa hè Cali, bên trong đông người nằm như "cá hộp" nhưng chẳng ai đau yếu, cảm cúm, nóng lạnh chi cả. Có lẽ như tâm an lạc, chẳng giành hơn, không tranh thua cho nên khỏe.

Còn lại hai căn nhà là dành cho Chư Tăng, bên cạnh những căn nhà tắm quê hương, chỉ có một vòi nước, cái thau và chiếc gáu. Đúng như tinh thần giáo pháp lục hòa mà Đức Thế Tôn đã dạy: "Thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân." Có lợi cùng chia và thật sự đã chia cho nhau từng chiếc nệm, từng thau nước, từng vật dụng cần thiết, đơn sơ.

Những điều tường thuật một cách khái lược từ trước đến đây chỉ là đôi điều về hình thức, bên ngoài để thấy được: "cái khó bó cái khôn", nhưng cái khó ấy thật vô cùng quí báu, mà trong cuộc sống bình thường giữa một xã hội văn minh tiến bộ vật chất của mỗi tự thân hiếm có được.

Khat_Thuc__12_
"Nhất bát thiên gia phạn..." Khất Thực - Ảnh: Hạnh Tuệ

Đặc biệt, mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, về phần nội dung tu học được chia làm hai phần: 1. Giảng dạy cho Chư Tăng Ni và 2. Phần khác là cho nam nữ cư sỹ Phật tử. Giảng dạy qua các chủ đề Kinh, Luật, Luận, kinh nghiệm trong công cuộc hoắng pháp nơi hải ngoại. Người Tăng sỹ PGVN trang bị cho mình một hành trang mới để dấn thân trên con đường phụng sự nơi xứ người... nhiều và nhiều đề tài thiết thực cho thế hệ thanh niên Tăng Ni - thế hệ kế thừa, thấy được trách nhiệm của mình mà tu, mà học, mà hiến dâng cho Phật Pháp. Đối với các bậc Tôn túc thì quả thật, quí Ngài đã thể hiện tấm lòng bao dung, chở che, độ lượng để sách tấn đàn hậu học. Trong những buổi giảng dạy, quí Ngài rõ thật một lòng trao truyền tất cả những kinh nghiệm, sở học cho hàng hậu bối. Quí Ngài luôn nhắc nhở "tre tàn" thì "măng phải mọc". Do vậy mà, suốt thời giảng dạy tất cả đều được học hỏi, lợi ích. Còn đối với quí Thầy Cô trẻ - Tân học Tỳ Kheo, thì thiết tha tìm cầu cái gì cao quí nơi các bậc cha ông và luôn thể hiện tinh thần tuân thủ, phụng hành như Luật dạy.

Còn phần 2, lớp học - vấn đáp Phật pháp của nam nữ cư sỹ Phật tử lại càng sôi nổi, hào hứng hơn, khi mà trên bàn của vị điều hợp hàng mấy chục câu hỏi chờ sẳn để được giải đáp của Ban Giáo Thọ. Tấm lòng nghiên tầm kinh điển, học hỏi giáo pháp để áp dụng vào đời sống xã hội của nam nữ cư sỹ Phật tử quả thật rất hăng say và nhiệt tình. Đấy là điểm nóng mà trong những đạo tràng tu học khác ít có được.

Và sau cùng là Đoàn Tăng Ni an cư đi khất thực, gợi lại hình ảnh thời Đức Thế Tôn và hàng Thánh Đệ Tử còn tại thế, làm sống dậy tâm thức, ước nguyện cúng dường của đàn na tín thí. Một hình ảnh đẹp, hình ảnh tự lợi và lợi tha, hình ảnh gieo nhân lành, gặt quả thiện, mà từ lâu rồi trong cộng đồng Phật tử nơi đây ít thấy có hơn 200 Chư Tăng Ni đắp y vàng, mang bình bác thứ đệ khất thực. Thật:

"... Hạnh phúc thay Tăng già hòa hợp

Hạnh phúc thay tứ chúng đồng tu."

Chiều nay, sau lễ khởi công xây dựng Chùa Bát Nhã, dưới sự chứng minh của Chư Tôn Trưởng Lão Hòa Thượng cùng sự tham dự của các giới chức chính quyền các cấp, đã tạo nên một sinh khí mới cho Chùa Bát Nhã. Và mọi người, ai nấy đều kỳ vọng nay mai Phật sự kiến tạo ngôi Già lam Bát Nhã sẽ thành tựu viên mãn. Đây là mái chùa có tầm cở, đủ sức chuyên chở nền văn hóa PGVN cho nhiều thế hệ nơi hải ngoại.

Trả lại không khí yên tĩnh cố hữu như thuở nào cho Chùa Bát Nhã, Chư Tôn Đức Tăng Ni ra về trú xứ của mình để tiếp tục Phật sự tại địa phương. Cổng Chùa Bát Nhã được khép lại, nhưng những hình ảnh của những chiếc y vàng và hương vị giáo pháp vẫn còn vương vương trên lá hoa, trên ngọn cỏ, như là sức sống miên trường không tăng không giảm của dư âm mùa hạ năm nay.

Hạ 2012, tháng 6, Nhâm Thìn

Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2014(Xem: 7556)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9053)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14224)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8158)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 12810)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8446)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10015)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9345)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8334)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8692)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]