Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bóng sắc

05/07/201208:34(Xem: 6808)
Bóng sắc
BÓNG SẮC
Quảng Tánh

bongsac-quangtanhNgười đẹp thì dù đi tu, đầu cạo trọc, khoác cà-sa vẫn đẹp. Ở đời cũng như trong đạo, khả ái và dễ thương là một phước báo. Tuy vậy lợi điểm này đôi khi cũng bất cập hại và không ít người tu phải lao đao vì cái "đẹp" của mình.

Đẹp thì dễ thu hút người khác phái, dẫu xuất gia tu hành ly dục đi nữa cũng không ngăn được lòng trần của người thế tục mến mộ mình. Xưa, nàng Matanga (Ma Đăng Già) từng mê mệt Tôn giả Anandà đến mất ăn bỏ ngủ, rồi dùng cả chú thuật để dụ dẫn ngài ân ái nhưng không thành và cuối cùng đành chấp nhận xuất gia để lâu lâu được lén nhìn người trong mộng. Sau nhờ Matanga chứng A la hán (một quả vị tâm hoàn toàn thanh tịnh, hết sạch mọi phiền não, ái dục) nên mọi chuyện thành ra nhẹ nhàng. Đường Tăng khi thân hành qua Tây Trúc cầu pháp, thỉnh kinh, trong gần một trăm kiếp nạn thì nạn bị ma nữ mến thương không phải là ít… nhưng rồi ngài cũng vượt qua được hết để viên thành đại nguyện.


Điều đáng nói là, người tu vượt qua sự mến mộ vấn vương luyến ái của người khác phái tuy chẳng dễ, cũng lắm trần ai nhưng vượt qua sự chấp thủ và luyến ái tự ngã, yêu thương chính mình mới thực sự vô vàn khó khăn…


Tích truyện Pháp cú
kể rằng: “Ni cô Rùpanandà gia nhập Ni chúng không phải với lòng tin mà vì lòng thương gia quyến. Cô có vẻ đẹp tuyệt trần nên được đặt tên Rùpa. Một hôm, nghe Thế Tôn giảng: "Cái đẹp của sắc là vô thường, hệ lụy với khổ đau, phi thực; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy". Cô cho rằng Thế Tôn chỉ nhìn thấy cái xấu trên thân thể, bởi còn nhiều cái rất đẹp để nhìn, rất xinh để ngắm. Do đó, cô không thích diện kiến Thế Tôn.

Rồi một hôm Rùpanandà có ý định đi nghe pháp. Ni chúng rất vui mừng vì từ lâu cô không muốn đến hầu Phật, có cô chắc Ngài sẽ thuyết pháp với nhiều chi tiết thú vị hơn.

Thế Tôn biết trước Rùpanandà đến đảnh lễ. Và để dạy dỗ người quá đắm trước thân mình, để làm tiêu tan lòng kiêu hãnh của nàng vì ỷ có sắc đẹp, Ngài dùng chính sắc đẹp thân thể làm phương tiện giáo hóa, giống như phải dùng gai lễ gai. Thế Tôn liền hiện thần thông: Một thiếu nữ mười sáu xuân xanh đẹp chưa từng thấy mặc bộ y phục đỏ thẫm, trang điểm với tất cả món trang sức, đứng hầu bên Thế Tôn, cầm quạt phe phẩy. Chỉ có Phật và Rùpanandà trông thấy cô gái.

Rùpanandà vào tinh xá rồi quan sát Thế Tôn từ đầu đến chân. Ngài rực rỡ xán lạn với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Rùpanandà thấy cô gái đứng cạnh Phật có gương mặt rực sáng như trăng rằm. Ngắm lại thân mình, cô thấy chẳng khác gì con quạ đen đang đứng trước con ngỗng chúa sắc vàng. Cô say mê những nét đẹp của người thiếu nữ và thầm mong mình cũng được như thế. Thế Tôn biết được ý tưởng của cô nên bắt đầu thuyết pháp. Ngài hóa hiện thiếu nữ từ mười sáu tuổi lên hai mươi tuổi. Rùpanandà nhận ra ngay bóng sắc này không bằng trước đây. Rồi thiếu nữ thành thiếu phụ một con, đến trung niên và cuối cùng là một lão bà già khụ. Rùpanandà theo dõi từng giai đoạn biến đổi cho đến khi là bà lão răng rụng, tóc bạc, lưng còng oằn xuống, tay chân run rẩy. Thấy vậy, Rùpanandà không khỏi nhàm chán, ghê sợ sắc thân. Cuối bài thuyết pháp, Phật hóa hiện bà lão lâm bệnh, đau đớn kêu thét, té xuống đất, lăn lộn cùng với các vật dơ uế. Bà lão chết rồi, thi thể bà trương phồng, từ chín lỗ máu mủ chảy ra. Quạ và chó bu đến, nhào lên người bà xé xác… Sự kiện này làm Rùpanandà chấn động thực sự. Cô thấy rõ ngay chính thân này sẽ già đi, lâm bệnh rồi chết. Từ cái thấy về bất tịnh và vô thường ấy, khiến tâm Rùpanandà đi vào thiền định.

Thấy vậy, Phật đọc kệ khai thị, Rùpanandà chứng quả Tu đà hoàn. Sau, Rùpanandà chứng đắc Thánh quả A la hán”.


Ni cô Rùpanandà xuất thân từ hoàng tộc, là công chúa dòng họ Thích xinh đẹp. Khi xuất gia rồi cô vẫn tự hào về vẻ đẹp của thân thể mình. Rùpanandà không hài lòng và không chấp nhận lời nhận định "Cái đẹp của sắc là vô thường, hệ lụy với khổ đau, phi thực" của Đức Phật.


Điều này cũng là lẽ thường đối với những ai nhìn thân này cạn cợt nơi hình thức bên ngoài. Và công bằng mà nói, nếu chỉ nhìn bên ngoài thôi thì thân này "còn nhiều cái rất đẹp để nhìn, rất xinh để ngắm" đấy chứ!? Nhưng đối với người dấn thân cầu giác ngộ thì phải rèn luyện cái nhìn sâu sắc hơn, thấy rõ bản chất sự vật y như chính nó, không thể khác được. Do vậy, cái thấy về sự thật này đôi khi thật lạnh lùng, trần trụi, thậm chí gần như tàn nhẫn nhưng lại xác thực với chân lý và có khả năng trị liệu, chuyển hóa ái dục, nhất là tham ái tự ngã rất hữu hiệu.

Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thường và phi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm, suy ngẫm của hành giả. Đẹp thì dễ sinh tham ái, chấp thủ và hệ quả kéo theo là khổ đau. Ngược lại, thấy rõ như thật thân này là vô thường, bất tịnh thì ly tham, ly dục ắt thảnh thơi và tự tại.

Ni cô Rùpanandà nhờ Phật hiện thần thông nên thiền quán về thân thể mà siêu việt từ phàm phu lên Thánh giả. Thần thông ấy Đức Phật vẫn thị hiện cho chúng ta trong những biến động của cuộc sống hàng ngày nhưng liệu có ai nhận ra để chuyển hóa như Rùpanandà không? Và đó cũng là việc của tự thân mỗi hành giả cần phấn đấu và thành tựu.


Quảng Tánh
http://www.thichquangtanh.com/
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2011(Xem: 11695)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
14/01/2011(Xem: 8108)
Thôi Hiệu (704-754), người Biện Châu, huyện Khai Phong, nay là mộtthành phố lớn thuộc tỉnh Hà Nam. Thôi Hiệu đi chơi tỉnhVũ Xương, trèo lên lầu Hoàng Hạc tức cảnh đề thơ. Bàithơ viết theo thể thất ngôn, lấy tựa là Lầu Hoàng Hạc,dịch âm như sau :
13/01/2011(Xem: 6499)
Ý thức về dòng họ là nét văn hóa tiêu biểu của người phương Đông, ở phương Đông khi nhắc đến một nhân vật, một vĩ nhân hay một người bình thường điều đầu tiên mọi người hỏi đến là tên gì họ gì. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy, khi ứng thân trên cuộc đời này ngài cũng là con cháuthuộc dòng họ Thích Ca ở Ấn Độ.
12/01/2011(Xem: 7015)
Trong thời gian giáo lý của đức Phật đươ.c truyền bá khắp nơi trên Á Châu và thế giới, có nhiều trường phái với nhiều lối giải thích về Phật pháp khác nhau đươ.c sinh lên. Mỗi trường phái chú trọng vào một điểm riêng, có một hệ thống thần học riêng và những phương tiện khéo léo riêng biệt. Mặc dù các truyền thống khác nhau ấy có thể không đồng ý về một số điểm trong giáo lý đức Phật, nhưng có một công thức giáo pháp chung mà bao giờ cũng vẫn là trọng tâm của mọi truyền thống, đó là : Tứ Diệu Đế hay là Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm.
11/01/2011(Xem: 11363)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
09/01/2011(Xem: 9292)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
09/01/2011(Xem: 5591)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
06/01/2011(Xem: 7228)
Cũng trên đường Bolsa, nơi cù lao phân chia đại lộ thành hai chiều xe qua lại, người ta trồng một số cây cảnh và sắp một vài tảng đá tạo thành một hòn giả sơn nho nhỏ. Ngay chỗ đó, khách qua lại vẫn thường trông thấy một nhà sư ôm bình bát đứng yên. Đầu đội trời, chân đạp đất. Trời nắng chang chang những ngày vào hạ. Trong các văn phòng, và trên xe, mọi người đều mở máy lạnh. Riêng một nhà sư tuổi trẻ, trang nghiêm đứng ôm bình bát, mắt nhắm lim dim, dáng thẳng, bất động, như một pho tượng.
06/01/2011(Xem: 13907)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
06/01/2011(Xem: 6306)
Nhiều chuyên gia Âu Mỹ cho rằng: Phật tử cũng như người Ấn Độ rất hiền hậu, không thích gây hấn, và rất dễ chung sống hòa bình với người khác. Nhìn Đạo Phật, thấy luôn, đó là những người mang tính hòa giải rất cao. Phật tử không chỉ hòa giải với người khác mà họ còn hòa giải với từng con vật bé nhỏ. Họ không sát sinh, như thể sợ rằng, mình ăn thịt chúng, rồi không thoát được kiếp luân hồi sinh tử, đến một ngày nào lại phải trở thành một con vật nào đó, để cho con vật đã từng bị mình ăn thịt ăn lại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567