Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thượng tọa và chú tiểu

26/06/201213:51(Xem: 7996)
Thượng tọa và chú tiểu

THƯỢNG TỌA VÀ CHÚ TIỂU
Quảng Tánh

thuongtoavachutieu-quangtanh-01Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong. Danh tiếng cũng là một trong năm món dục được chúng sinh ưa thích, tham đắm cần phải loại trừ. Cả hai phương diện danh và thực này nếu tương ưng nhau thì quá tốt, nếu có thực mà không danh thì càng hay, nhưng có danh mà không thực thì quả là tai họa.

Thời Đức Phật, các bậc đạo cao, đức trọng thường được tôn xưng là thượng tọa, trưởng lão. Vì thế, hàng thượng tọa được Tăng chúng và tín đồ cung kính, nể trọng, cúng dường hậu hĩ đồng thời các ngài là bậc lãnh đạo, mô phạm trong đại chúng nên luôn được Phật ca ngợi, tán thán ví như voi chúa hay những con bò đực đầu đàn. Cũng vì sự trọng vọng này mà không ít người chưa điều phục được tâm tham, ao ước bước lên hàng thượng tọa để cầu lợi đắc, danh vọng và cung kính.


Truyện cổ Phật giáo kể rằng:

“Một thời, Đức Thế Tôn đang ngự ở tinh xá Kỳ Viên. Bấy giờ, có mười vị Tỷ kheo từ Câu Thi Na đến yết kiến Ngài. Lúc mới vào tinh xá, nhóm Tỷ kheo này gặp một chú tiểu ra vái chào. Sau khi đảnh lễ Đức Phật xong, các Tỷ kheo ngồi xuống một bên. Phật hỏi họ:
- Từ khi các thầy vào đây đến giờ có gặp vị thượng tọa nào không?
Các thầy đồng thưa:
- Bạch Thế Tôn, không ạ!
- Thế các thầy không gặp ai cả sao?
- Thưa, chúng con có gặp một chú tiểu tuổi chưa đến hai mươi.
- Này các Tỷ kheo, vị ấy không phải là một chú tiểu mà chính là bậc thượng tọa mà Ta muốn nói.
- Nhưng… chú ấy còn quá trẻ, bạch Thế Tôn.
- Này các Tỷ kheo, Ta không gọi ai là thượng tọa vì tuổi tác, vì họ được ăn trên ngồi trước hay xuất thân từ dòng dõi danh gia vọng tộc. Chỉ có người nào thấu đạt Chánh pháp, cư xử tốt với mọi người, Ta mới gọi vị ấy là thượng tọa.
Rồi Thế Tôn nói kệ:
-Dù tuổi cao mày bạc
Không tịnh hạnh tu trì
Tôn xưng là thượng tọa
Danh suông chớ ích chi.
-Những ai thấy Chánh pháp
Tự điều phục thân tâm
Thanh tịnh không não hại
Mới đáng gọi thượng nhân.”


Kinh Phật còn ghi rằng, khi chưa chứng A la hán, Tôn giả Nan Đà thường đắp y, ôm bát sáng chói để mong được tỏa sáng trong khi đi khất thực; còn Tôn giả Ca Lưu Đà Di thì chăm lo bồi dưỡng thân thể để mong sao thật đường bệ, uy nghiêm, hoành tráng mỗi khi ngồi trong hội chúng. Vì chạy theo hình thức, giả trang thiền tướng để mọi người cung kính nên hai Tôn giả này đã bị Phật rầy. Cũng may là các ngài này đã thị hiện để Phật quở trách nhằm cảnh tỉnh hàng hậu thế chúng ta.


Thế Tôn biết rõ người đời sau phước mỏng nghiệp dày, đam mê danh vọng nên Ngài đã khẳng định: “Đối với Ta, thượng tọa là bậc đã thấu đạt Chánh pháp, cư xử tốt với mọi người (bi trí viên dung), không vì tuổi tác hay nguồn gốc xuất thân; một chú tiểu nếu xứng đáng cũng được gọi là thượng tọa”.

Thì ra, các danh xưng như chú tiểu, đại đức, thượng tọa, hòa thượng hay thời thượng hơn như pháp sư, thiền sư và mọi danh xưng ở đời cũng chỉ là danh suông. Cái danh xưng vốn chẳng có giá trị hay liên hệ nào đến nội tâm an tịnh, tuệ giác hưng khởi và tự tại giải thoát cả. Nhưng dù sao thì mỗi người cũng cần phải có một hư danh để phân biệt với các hư danh khác. Và như thế, nếu danh chưa xứng với thực thì điều nên làm có lẽ là phản tỉnh, tự vấn lương tâm để tàm quý, hổ thẹn hơn là tự mãn, vui mừng. Bởi chỉ có Phật, Bồ tát và mỗi chúng ta với chức danh hiện tại mới biết rõ mình là ai, danh đã xứng với thực hay chưa?

Ai cũng biết danh xưng là giả huyễn, tự phong hoặc người khác phong cho mình một danh xưng cũng vậy thôi. Bởi một khi thấy rõ thật tướng, an trú trong vô chấp, vô trụ thì cái thật cũng rụng rơi, không còn chỗ bám víu huống gì cái giả. Về hình thức, tên gọi thì chú tiểu và thượng tọa khác nhau nhưng nội dung thì bất khả tư nghì. Vì thế, khi đã biết rõ về cái giả danh, người có lương tâm thì phải luôn phấn đấu cho xứng danh và người có tuệ giác thì buông xả để không dính mắc, vượt qua hết thảy, dù danh hay thực.

http://www.thichquangtanh.com/

(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/04/2011(Xem: 6616)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
13/04/2011(Xem: 6704)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
11/04/2011(Xem: 8155)
Được LHQ đồng ý cho tổ chức ở VN là điều vinh dự cho Phật giáo VN, vì chuyện này không phải dễ. Phật giáo VN đã có từ ngàn năm trước, đã qua bao nhiêu chế độ, từ quân chủ đến thực dân, từ công hòa đến cộng sản, sao lại đem cái vô hạn mà lồng vào với giới hạn?
11/04/2011(Xem: 7132)
Propertius cho rằng: “Khi yêu ai cũng mù quáng”; Albert Camus thì nhẹ nhàng hơn: “Tình yêu thường làm cho con người mù quáng”. Nhận xét này đúng với số đông và dường như đi ngược lại với “chánh niệm” - một pháp tu nền tảng của Phật giáo. Bởi chánh niệm luôn đòi hỏi sự tỉnh giác - tỉnh táo và xả ly - không bám giữ.
11/04/2011(Xem: 6369)
Chúng tôi đến thăm Thầy vào một buổi chiều cuối tháng Tư. Trời Cali bắt đầu vào Hạ nhưng vẫn còn cái se lạnh của mùa Xuân chưa hết. Thầy ra cửa đón chúng tôi tại một ngôi chùa ngập bóng cây ở thành phố Pomona. Mới cách đây hơn một tiếng đồng hồ, chúng tôi còn hòa vào dòng xe tấp nập trên các xa lộ mà giờ như lạc vào một khung cảnh yên bình, ít xe cộ và người qua lại. Cảnh chùa chiều thứ Sáu thật yên tĩnh, không một bóng người, chỉ nghe thấy tiếng lá rì rào.
11/04/2011(Xem: 20680)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạc và hạnh phúc...
10/04/2011(Xem: 18783)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạc và hạnh phúc...
05/04/2011(Xem: 7388)
Chúng tôi xin lược tóm trình bày, qua sự tường thuật của các báo chí Tây phương trong nhiều năm qua, để quý độc giả Phật tử xa gần biết rõ vềcác biến cố “Pháp nạn” xảy ra tại nước Phật giáo Tây Tạng hơn 50 năm trước dưới chế độ cai trị tàn bạo của chính quyền Trung Cộng.
03/04/2011(Xem: 7119)
Tri ân Alan Kartly và con gái – Australia – đã gửi tặng nguyên tác tiếng Anh On Truth. ÔNG KHÔNG. Con người vĩ đại nhất trong tất cả những con người giải thoát đã luôn luôn giảng thuyết bằng sự đơn giản và sự rõ ràng lạ thường. Đây là bản chất của Sự thật, và đó là bản chất của Krishnamurti.’ Larry Dossey, M.D.
02/04/2011(Xem: 6860)
BernardBaudouin, một nhà nghiên cứu Phật giáo người Pháp, đã chọn ra 365 lời phát biểuthuộc nhiều đề tài khác nhau của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma từ một số sách và các bàithuyết giảng của Ngài để xuất bản một tập sách với tựa đề Trí tuệ của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma trongmột quyển sách nhỏ, 365 tư tưởng và suy tư hàng ngày(Le petit livre de Sagesse du Dalai-Lama, 365pensées et méditations quotidiennes,Marabout, 2002).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]