Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự tích chuông chùa

26/09/201007:05(Xem: 8038)
Sự tích chuông chùa

chuongchua1-content

“Chuông chùa cảnh tĩnh người trần thế - Đem đến an vui cho mọi nhà”
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác và luôn tìm cách huỷ báng Tam Bảo.

Một hôm nhà vua thỉnh Hoà thượng Chí Công và 500 chư Tăng vào cung để cúng dường trai Tăng, bà Hoàng hậu Hy Thị tức giận, bèn sai những người hầu cận giết 100 con chó đem làm nhân bánh ít để cúng dường chư Tăng. Sau khi chư Tăng thọ trai xong ra về, Hoàng hậu Hy Thị liền tâu với vua rằng: “xưa nay vua tin các vị Hoà thượng đã chứng đạo nên cung kính cúng dường, vừa rồi nhân bánh ít dâng cúng được làm bằng thịt 100 con chó mà chư Tăng không hề hay biết mà đã ăn hết như vậy thì đâu đã chứng đạo”.

Vua Lương Võ Đế nghe vậy rất tức giận, bèn lên ngựa cùng lính hầu cận đến chùa để chém chư Tăng. Vừa đến cổng chùa, vua liền thấy Hoà thượng Chí Công đang dừng dưới gốc cây bồ đề, vua hỏi:

- Hoà Thượng ra đây làm gì?

Hoà thượng Chí Công đáp:

- Ra đây đợi vua đến chém đầu, vì sợ ở trong chùa máu đổ hoen ố cửa Phật

Vua Lương Võ Đế rất ngạc nhiên và hỏi:

-Hoà Thượng đã biết trước như vậy sao trưa nay khi thọ trai, bánh ít được làm bằng nhân thịt chó mà Hoà thượng và chư Tăng vẫn dùng?”

Hoà thượng Chí Công đáp:

- Đêm qua trong lúc thiền định bần đạo đã biết ác tâm của Hoàng hậu nên đã sai Tăng chúng làm bánh ít chay bỏ vào tay áo tràng bên phải và khi ăn lấy bánh ít nhà vua dâng cúng bỏ vào tay áo bên trái đem về chôn và lấy bánh ít đem theo ra ăn.

Nói xong, Hoà thượng Chí Công mời nhà vua và tuỳ tùng cùng ra chỗ chôn bánh ít, Hoà thượng bảo chư Tăng đào lên thì bánh ít vẫn còn, Hoà thượng Chí Công lấy nước làm phép và đọc thần chú, lập tức số bánh ít ấy được hiện thành 100 con chó. Vua giật mình và quỳ xuống lạạy sám hối rồi lặng lẽ hồi cung.

Ít lâu sau, Hoàng hậu Hy Thị lâm trọng bịnh và qua đời, nhà vua lo tang lễ chu toàn. Một hôm vào lúc đêm khuya đang ngồi trong cung tĩnh mịch vua Lương Võ Đế nghe có tiếng người kêu van thảm thiết, vua bèn lên tiếng hỏi:

- Nhà ngươi là ai, đêm khuya thanh vắng nghiêm mật thế này lại vào đây được?

Liền có tiếng trả lời:

- Hoàng đế ơi thần đây chính là Hy Thị vì quá độc ác, không tin Tam bảo gây nhiều tội lỗi nên sau khi chết rồi thần thiếp phải bị đoạ làm rắn mãng xà ngày đêm đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vảy bị vi trùng rỉa ráy không thể chịu được. Nghĩ đến tình cầm sắc trước kia nên thần thiếp đến đây mong nhờ Hoàng đế tìm phương cứu thiếp" -nói rồi liền biến mất.

Nghe xong, vua Lương Võ Đế như thoát cơn ác mộng, lòng đau như dao cắt. Ngày hôm sau lâm triều, vua đem chuyện ấy kể lại cho bá quang văn võ nghe để cùng vua tìm phương cứu vớt Hoàng hậu Hy Thị.

Các quang lại tâu vua, xin cung thỉnh Hoà thượng Chí Công lo việc nầy, vua Lương Võ Đế chấp thuận, thỉnh cầu Hoà thượng Chí Công triệu tập các vị danh Tăng soạn ra cuốn Lương Hoàng Sám Pháp và lập đàn tràng sám hối cho Hoàng hậu Hy Thị đồng thời đúc đại hồng chung để hồi hướng công đức cầu siêu cho Hoàng hậu Hy Thị. Nhà vua chí tâm thân hành lễ bái, trong đêm khuya giữa đàn tràn sám hối, tiếng đại hồng chung ngân vang, mùi hương thơm ngào ngạt khắp cả đạo tràng, Hoàng hậu Hy Thị hiện thân tiên nữ sinh đẹp, tỏ lòng cảm ơn Hoà thượng và Hoàng đế bà nói nhờ công đức đúc đại hồng chung, nhờ đàn tràn sám hối mà bà đã thoát nạn và đã được sanh lên cung trời Đao Lợi.

Đó là quả đại hồng chung đầu tiên trong lịch sử chuông chùa. Từ đó đến nay tất cả các chùa Phật giáo nhơn đó mà đều rất chú trọng đến việc chú tạo đại hồng chung…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2010(Xem: 9563)
Tối nay, tôi muốn nói về sự thực tập Phật Pháp trong đời sống hằng này. Từ ngữ Phật Pháp - Giáo Pháp – Dharma có nghĩa là phương sách ngăn ngừa. Nó là điều gì đấy mà chúng ta thực hiện nhằm để tránh những rắc rối. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để liên hệ chính chúng ta với sự thực hành Phật Pháp là để nhận ra rằng thực hành Phật Pháp là để hướng tới việc giúp chúng ta tránh khỏi những rắc rối này.
06/11/2010(Xem: 6878)
Chuyện cô nữ tu ngoại đạo Sundarī và kỹ nữ Ciñcā-māṇavikā có sắc đẹp tuyệt trần nhưng lại mang thân phận thấp hèn, hạ liệt; và cả hai đều bị chết thảm, người thì bị giết rồi cái thây bị chôn trong đống rác, người thì bị đất rút với quả báo địa ngục; hai sự kiện ấy đã dấy sinh trong lòng hoàng hậu Mallikā không biết bao nhiêu là câu hỏi, về nhân quả đời này, đời kia cũng như sự “bí mật” của nghiệp!
06/11/2010(Xem: 12387)
Ngày20 tháng tư nhuận năm Quí Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễnhành của trên 800 vị Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni đểtranh đấu cho chính sách bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốctế không bị triệt hạ: tại ngã tư đường Phan Ðình Phùng,Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn), lúc 9 giờ sáng, Hòa Thượng QuảngÐức phát nguyện tự tay châm lửa thiêu thân làm ngọn đuốc“ thức tỉnh” những ai manh tâm phá hoại Phật giáo. Dướiđây là tiếng nói tâm huyết cuối cùng của Ngài gửi lạicho đời.
06/11/2010(Xem: 8289)
Ngày nay, ở phương Tây, rất nhiều trung tâm dạy thiền, khí công, yoga… để chữa bệnh cũng chủ yếu là dạy cách thở bụng Nguyễn Khắc Viện là một bác sĩ, sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phổi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa như bây giờ. Từ năm 1943 đến năm 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái.
04/11/2010(Xem: 7409)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
04/11/2010(Xem: 9965)
Học Phật không phải học lý thuyết của một bộ môn tư tưởng, cũng không phải cố gắng hoàn tất những pho giáo lý được biện giải bởi những nhà tri thức đa văn và có tài diễn đạt, cũng không phải như những Pháp sư thông làu các tạng kinh, luận và giới luật. Học Phật ta có thể tạm thí dụ như học ngành bác sĩ chuyên khoa, chữa trị bệnh tật có hiệu lực và cứu sống được nhiều người.
02/11/2010(Xem: 8148)
Hôm nay chúng tôi xin nói qua và giải thích thêm về bản chất của Đạo Phật để quí Phật tử thấy rõ đạo Phật là bi quan hay lạc quan. Đây là vấn đề mà nhiều người muốn biết, nhưng Phật tử chúng ta đa số vẫn chưa giải nổi. Chúng tôi sẽ nói rõ để quí Phật tử hiểu cho thật đúng với tinh thần của đạo Phật, tránh bị người xuyên tạc, hiểu lầm. Trước hết, chúng tôi nói đến quan niệm mà đa số người hiểu lầm cho rằng đạo Phật là bi quan.
02/11/2010(Xem: 8633)
aukhi D.T. Suzuki qua đời, hội Phật giáo Hoa kỳ góp nhặt các bài viết cuối cùng củaông để in thành sách với tựa đề "Lãnhvực của Thiền học Zen" (TheField of Zen, 1969) và bốn mươi năm sau quyển sách này được dịch sang tiếngPháp với tựa đề "Những bài viết cuốicùng bên bờ của cõi trống không" (DerniersÉcrits au bord du Vide, 2010). Dưới đây là một trong số các bài được tuyểnchọn trong quyển sách này.
31/10/2010(Xem: 9235)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
31/10/2010(Xem: 10031)
Bài nầy do Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển "Living Buddha, Living Christ" của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ "Buddha" được dịch là "Bụt", một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm "Buddha" khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ "Phật" hay "Phật Ðà" (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ "Bụt". Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]