Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đầu năm nói về cầu an cầu siêu

11/03/201211:57(Xem: 8416)
Đầu năm nói về cầu an cầu siêu

cauancausieu-minhduc-1-contentCầu an là mong muốn có được đời sống an vui hạnh phúc, không bệnh tật, khổ não, ít rủi ro, bất trắc…

“An” ở mỗi con người phải là thân an, (khỏe mạnh, sống lâu, không bệnh tật, không tai nạn, rủi ro…), tâm an (trạng thái tinh thần thanh thản, thoải mái, không lo âu phiền muộn, không sợ hãi, khủng hoảng, không căng thẳng bức bối…), hoàn cảnh an (gia đình ấm no hạnh phúc, điều kiện sống, hoàn cảnh sống tốt, các mối quan hệ tốt đẹp, gặp nhiều thuận duyên trong cuộc sống…).

Muốn được những điều đó cần phải tu dưỡng, rèn luyện thân, tâm, tích cực xây dựng đời sống cá nhân, đời sống xã hội trên tinh thần nhân quả, có chánh kiến (thấy, biết chơn chánh, nhận thức đúng đắn), chánh tư duy (suy nghĩ chơn chánh, tích cực), chánh ngữ (lời nói chơn chánh, hiền hòa, từ ái, có lợi ích thiết thực cho mình và cho người), chánh nghiệp (hành vi chơn chánh, ba nghiệp thân, khẩu, ý trong sạch), chánh mạng (nuôi sống thân mạng bằng nghề nghiệp, việc làm chơn chánh), chánh niệm (ý niệm chơn chánh, thường nhớ nghĩ điều lành, không vọng tưởng điên đảo, không niệm tham, sân, si), có tu tập thiền định (để có năng lực làm chủ cảm xúc, tình cảm, tâm lý, không dễ dàng bị lôi cuốn, cám dỗ bởi hành vi, lối sống tiêu cực, bất thiện), trí tuệ (nhận thức sáng suốt, năng lực hiểu biết đúng đắn, tích cực giúp xác định rõ đâu là điều thiện, đâu là điều bất thiện, hành vi nào mang lại an lạc, hạnh phúc cho mình và tha nhân.

Cao hơn nữa là thấy rõ bản chất của đời sống (duyên sinh, vô thường, khổ, không, vô ngã), thoát khỏi những ảo tưởng, ảo kiến của người bình thường, từ đó không còn bị ràng buộc, hệ luỵ, không còn những bất an, đau khổ).

Nếu chúng ta muốn xây dựng một đời sống an vui hạnh phúc thì không gì hơn cố gắng tạo nhiều thiện nghiệp, không làm phát sinh những bất thiện nghiệp chưa phát sinh và chừa bỏ những bất thiện nghiệp đã tạo.

Có thể đời sống hiện tại của chúng ta đang gặp nhiều khó khăn, khổ đau, bất hạnh, đó là do nghiệp nhân từ những đời trước hoặc quá khứ của đời này, nhưng các nghiệp thiện được tạo tác trong hiện tại có thể hóa giải phần nào các nghiệp bất thiện trước kia. Bởi vì từ nhân đi đến quả có các yếu tố duyên (các nhân phụ) xen vào nên nghiệp quả sẽ có sự chuyển biến. Cũng có trường hợp nghiệp quả không hình thành do sự can thiệp quá mạnh của các duyên.

Trong kinh Pháp cú Thí dụ, phẩm Vô thường thứ I có kể về vị trời Đế Thích sắp mãn phước, mất đi năm đức tướng (Ngũ suy tướng: 1. Mất hào quang, thân thể hôi dơ, 2. Hoa trên mão đội trên đầu khô héo, 3. Không còn ưa thích chỗ ở của mình, 4. Dưới nách chảy mồ hôi dơ, 5. Bụi bám lên thân).

Ông biết mình sắp mạng chung và tái sinh vào thai con lừa của một người thợ làm đồ gốm. Ông hết sức lo buồn, vội tìm đến chỗ Phật xin Phật cứu độ cho. Đế Thích đến nơi gặp Phật liền phủ phục sát đất đảnh lễ, chí tâm quy mạng Phật, Pháp, Tăng. Nhờ công đức phước lành đó mà ông thoát khỏi kiếp lừa sắp tái sinh và giữ được thân tướng Thiên Đế đầy đủ năm đức tướng.

Vì thế cần phải hiểu là tất cả những gì trong hiện tại không phải hoàn toàn do nghiệp nhân các đời quá khứ quyết định mà còn do nghiệp nhân trong hiện tại tạo nên, đó là thái độ sống, quan niệm, những suy nghĩ, hành vi tiêu cực hoặc tích cực trong hiện tại. Cho nên không tạo nghiệp nhân xấu, tạo nhiều nghiệp nhân thiện trong hiện tại là thái độ sáng suốt để cải thiện đời sống bất như ý và xây dựng đời sống an vui hạnh phúc cho mình. Đó là cách thức cầu an tích cực.

Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả. Bằng sự thực hành các thiện pháp, bằng sự tu tập giới, định, tuệ, chúng ta có thể vô hiệu hoá các nghiệp nhẹ mà đáng lẽ chúng ta phải nhận lãnh quả báo.

Ngoài sự chuyển hoá tâm ra thì mọi nhân duyên can thiệp vào cơ chế nhân quả đều có giá trị tạm thời hoặc phản tác dụng. Ví dụ như dùng quyền năng của chú thuật hay thần thông để ngăn chặn nghiệp quả, né tránh nghiệp quả thì chỉ có thể trốn tránh nhất thời chứ không trốn tranh mãi được.

Chỉ những người có thiện tâm, hành động của thân, khẩu, ý đều là hành động thiện lành thì những nghiệp nhân đó khế hợp với bổn hoài chư Phật, tương ưng với tâm đại bi của chư Phật nên chiêu cảm quả báo tốt, biểu hiện ở chỗ cầu có linh ứng, có hiệu nghiệm, gặp nhiều thuận duyên v.v... chứ không phải Phật, Bồ-tát ban phước hay tiêu trừ nghiệp chướng cho chúng ta.

Không ai có thể ban phước giáng họa cho chúng ta kể cả Đức Phật. Nếu người tạo nhiều nghiệp bất thiện mà người khác có thể gánh chịu thay cho hoặc giúp cho thoát khỏi quả khổ thì định luật nhân quả nghiệp báo không còn. Đức Phật cứu độ chúng ta là giúp cải thiện chính mình, từ đó làm thay đổi hoàn cảnh.

cauancausieu-minhduc-2-thumbnailKhi chúng ta phát khởi thiện tâm chính là tạo nghiệp nhân thiện, từ đó đưa đến quả báo tốt: Đời sống an vui hạnh phúc, gặp nhiều điều xứng ý vừa lòng. Hành động đi chùa cúng dường Tam bảo, kính Phật, trọng Tăng là hành động thiện, là nghiệp nhân thiện tất nhiên đưa đến quả báo tốt đẹp chứ kỳ thực không ai ban cho ta cả.

Trong kinh Pháp Cú Đức Phật có dạy: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói năng, hành động với tâm ô nhiễm thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo. Nếu nói năng, hành động với tâm thanh tịnh thì sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình” (Pháp Cú 1-2, Phẩm Song Yếu).

Nếu chúng ta sống đời sống không chơn chánh, đời sống bất thiện (trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, chiếm đoạt, mua gian bán lận, giả dối lọc lừa, làm giàu bằng xương máu kẻ khác…), nếu chúng ta sống buông thả không có trách nhiệm đối với bản thân, đối với gia đình, xã hội (rượu chè, cờ bạc, sa đọa, truỵ lạc, làm khổ cho mình và người khác…) thì dù có cầu cho lắm cũng không an, cầu đến đâu cũng không ai cứu độ được. Nên nhớ, ý nghĩa cầu an trong đạo Phật khác các tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo thần quyền.

Trong vấn đề cầu siêu cũng vậy, không thể cầu cho người tạo nhiều ác nghiệp được siêu thoát theo ý muốn của mình. Tất cả những việc làm lúc sinh thời là thiện nghiệp hay ác nghiệp, sau khi chết sẽ phải nhận lãnh kết quả dưới hình thức tái sinh cao hay thấp. Tức con người sau khi chết sẽ siêu thoát (tái sinh vào nhàn cảnh) hay đọa lạc (tái sinh vào khổ cảnh) tùy thuộc vào nghiệp mà mình đã tạo.

Cầu siêu có nghĩa là mong muốn hương linh người đã khuất siêu thoát khỏi khổ cảnh (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), được tái sinh vào cõi người hoặc các lạc cảnh khác (cõi Phật, cõi trời). Cầu siêu đích thực phải là sự mong mỏi, sự thành tâm thành ý và hành động hữu ích giúp hương linh được lợi lạc trong quá trình tái sinh.

Việc cầu siêu chỉ có ý nghĩa, giá trị khi người còn sống khai thị, cảnh tỉnh, giúp người chết chuyển đổi tâm niệm của mình. Pháp ngữ, lời kinh, tiếng kệ có năng lực giúp hương linh giác ngộ, tỉnh thức và sinh tâm hoan hỷ, nhờ đó họ an lạc không còn khổ não. Những công đức phước báu mà người thân làm để hồi hướng cho hương linh cũng mang lại nhiều lợi ích cho hương linh.

Khi người chết biết tùy hỷ trước những việc làm nhằm tạo công đức phước lành của những người thân của mình và phát khởi lòng thành kính hướng về Tam bảo thì họ đã chuyển hóa được phần nào những nghiệp ác bất thiện và tăng trưởng phước báu cho tự thân, nhờ đó mà được tái sinh vào lạc cảnh. Như trường hợp bà Thanh Đề, mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên, hay Hoàng hậu Hy Thị vợ vua Lương Võ Đế. Bà Thanh Đề lúc còn sống xan tham, bỏn xẻn, không kính tin Tam bảo, tạo nhiều nghiệp ác bất thiện, nên sau khi chết bị đọa làm ngạ quỷ phải chịu đau khổ, đói khát. Tôn giả Mục Kiền Liên đã tổ chức trai đàn, thỉnh Phật và mười phương Tăng siêu độ cho bà. Nhờ công đức phước báu cúng dường Tam bảo của tôn giả Mục Kiền Liên và sự phát tâm hoan hỷ của bà trước việc làm của Tôn giả mà bà thoát khỏi tội báo mang thân ngạ quỷ.

Bà Hy Thị lúc sinh tiền cũng tạo nhiều ác nghiệp nên sau khi chết sinh làm rắn. Nhờ vua Lương Võ Đế thỉnh Hòa thượng Chí Công và chư Tăng mở đàn tràng Lương Hoàng Sám giúp bà sám hối tội lỗi mà bà thoát khỏi kiếp rắn.

Thời Phật còn tại thế, có lần Ngài gặp một tội nhân bị chặt hết tay chân đem đến dâng cúng Ngài một cành hoa sen, Phật bảo với các Tỳ-kheo rằng: “Nhờ phước đức này, suốt trong chín mươi mốt kiếp sắp tới người cụt tay chân kia không những khỏi bị đoạ vào ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh mà còn được sinh lên các cõi trời cho đến khi hưởng hết phước ấy mới trở lại làm người”.

Trong kinh Kutadanta thuộc Trường Bộ kinh số 5, Đức Phật có dạy rằng, thường xuyên cúng dường các sa môn, xây tịnh xá, quy kính Tam bảo và thọ trì ngũ giới cùng thực hành các pháp môn tu tập là những cách tế lễ, cầu nguyện thực sự đem lại nhiều lợi ích nhất.

Mỗi người khi còn sinh tiền nên tạo cho mình những nghiệp nhân thiện, vì đó là hành trang duy nhất chúng ta có thể mang theo sau khi chết, nó quyết định đời sống kế tiếp của chúng ta. Đây là điều cần quan tâm nhất. Còn vấn đề cầu siêu sau khi chết chỉ là trợ duyên, chỉ có lợi ích khi hương linh người quá cố nghe tiếng kệ lời kinh mà giác ngộ tỉnh thức, sinh tâm hoan hỷ thành kính hướng về Tam bảo, tín thọ giáo pháp mà chuyển hoá tự tâm.

Vai trò của hương linh là chính yếu, kế đó là sự thanh tịnh của trai đàn, uy đức đạo hạnh của chư Tăng và sự thành kính, thiết tha của thân nhân người quá cố cùng với những phước báu mà họ tạo được và hồi hướng cho hương linh.

Tuy hương linh đóng vai trò quyết định, vì hương linh có thay đổi tâm niệm, buông bỏ những ý niệm mê lầm, xả bỏ phiền não, tham đắm, chấp trước, tự chuyển nghiệp của mình thì mới siêu thoát được, nhưng nếu không có sự giúp đỡ, trợ duyên của chư Tăng và người thân bằng cách khai thị, cảnh tỉnh, hướng dẫn hương linh hướng tâm về Tam bảo, làm các việc lành để hồi hướng công đức phước báu cho thì hương linh cũng khó mong siêu thoát, do đó người thân cần phải hỗ trợ cho hương linh để hương linh thoát khổ và được phần lợi lạc.

Cầu an-cầu siêu là hoạt động văn hóa tinh thần, hoạt động của đời sống tâm linh, từ lâu đã trở thành nhu cầu thiết thực đối với những ai quan tâm đến những giá trị tinh thần. Trong cuộc sống ai cũng muốn được an ổn, hạnh phúc, có sức khỏe, sống lâu trường thọ, đời sống gặp nhiều thuận duyên, ít rủi ro bất trắc…

Ai cũng muốn những người thân của mình sau khi qua đời sẽ được tái sinh vào các cảnh giới an vui, được về cõi Phật hoặc cõi Trời, hay ít ra cũng được trở lại làm người, không rơi vào các khổ cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó là nhu cầu chính đáng. Cầu an cho bản thân, gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loại là nghĩa cử đẹp đáng khích lệ, tán dương, là việc làm thấm đẫm tình người, giàu lòng từ bi.

Cầu siêu cho những người thân của mình đồng thời cũng cầu cho tất cả những vong linh chưa siêu thoát là việc làm thể hiện ân tình nghĩa cảm của người còn sống đối với những người đã khuất, thể hiện mối liên hệ giữa người với người dù sống trong hai thế giới hoàn toàn khác biệt.

Việc cầu siêu với mong muốn giúp cho những vong linh chưa siêu thoát được siêu thoát, đang ở trong cảnh khổ được thoát khổ cũng là biểu hiện của lòng từ bi, việc làm ấy cần được quan tâm phát triển.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/12/2022(Xem: 3021)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 3197)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 6865)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 4214)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 2702)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 4761)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 6833)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 4034)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
20/09/2022(Xem: 7724)
Kinh Tiểu Bộ Diễn Nghĩa Kệ Bāhiya Sutta (Thể song thất lục song bát) * Lê Huy Trứ
20/09/2022(Xem: 3624)
"Bài kinh giảng cho Girimānanda" / Girimānanda Sutta (AN 10.60) là một bài kinh ngắn nhưng thuyết giảng về một phép luyện tập thiền định thật quan trọng, thiết thực và cụ thể, giúp người đau ốm mượn hơi thở để trở về với chính mình, làm lắng dịu các sự đau đớn trên thân thể và mọi lo lắng trong tâm thần. Ở các cấp bậc lắng sâu hơn, phép luyện tập này cũng có thể làm cho căn bệnh hoàn toàn chấm dứt, mang lại một niềm hân hoan và thanh thoát thật sâu xa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]