Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện của rồng

18/01/201209:20(Xem: 7972)
Chuyện của rồng
conrong2
Có 990 ức cư sĩ, do vì đấu tranh kiên cố, phỉ báng kinh giới… sau khi chết đều vào trong loài Rồng..., nay số lượng của loài rồng nhiều không thể tính hết.

Quyến thuộctrước ít sau nhiều

Long vương hỏi Phật:

- Con trụ ở biển lớn này từ Kiếp sơ (Kalpāgra – thế giớihữu tình mới hình thành). Thuở Phật Câu-lưu-tôn, vợ con quyến thuộc ở trongbiển lớn này rất ít, nhưng nay thì rất đông.

Phật bảo Long vương:

- Những người xuất gia ở trong Phật pháp mà vi phạmgiới luật, trái với phạm hạnh, giới chưa xả mà đã phá giới… thì phần nhiều saukhi chết đều sanh vào loài Rồng.

Long vương lại hỏi:

- Những người phạm giới như vậy không thấy họ rơithẳng xuống địa ngục, mà sau khi hết thọ mạng đều sanh vào trong loài Rồng?

bac hai lv.jpg

Bắc Hải long vương

Phật bảo Long vương:

- Thời Phật Câu-lưu-tôn có 98 ức cư sĩ xuất gia, nhữngai phạm cấm giới đều sanh vào trong loài Rồng. Thời Phật Câu-na-hàm mâu-ni có80 ức cư sĩ xuất gia, những người huỷ giới, buông lung, sau khi hết thọ mạngđều sinh vào trong loài Rồng. Thời Phật Ca-diếp có 64 ức cư sĩ xuất gia, phạm giớiđều sanh vào trong loài Rồng. Nay ở trong thời của Ta, có 990 ức cư sĩ, do vìđấu tranh kiên cố, phỉ báng kinh giới… sau khi chết đều vào trong loài Rồng.Ngày nay đã có sự sinh sôi như thế là vì có những nguyên nhân trên, cho nên ởtrong biển lớn vợ con quyến thuộc của các loài Rồng số nhiều không thể tínhhết. Sau khi ta niết-bàn, có rất nhiều ưu-bà-tắc xấu ác, trái phạm cấm giới sẽsinh vào trong loài Rồng hoặc đoạ xuống địa ngục. (Kinh luật dị tướng, ĐTK/ĐCTTtập 53, N° 2121 dẫn Hải long vương kinh, quyển thứ 2)

Rồng giữ giới cho đến chết

Đại lực Độc longdùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồicũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia, vào rừng, ngồidưới gốc cây tư duy thiền quán. Ngồi lâu, Độc long mỏi mệt nên ngủ gục. Cáchthức của loài Rồng khi ngủ có hình dạng như con rắn bảy màu quý hiếm. Một ngườithợ săn trông thấy hết sức vui mừng, nghĩ rằng: Thật là hy hữu khó gặp, nếu talấy được bộ da của con vật này rồi dâng lên cho quốc vương để làm đồ phục sứcthì không có gì sánh bằng. Nghĩ vậy rồi, thợ săn bèn lấy mũi dao lột da Rồng.Rồng tự nghĩ rằng: Sức mạnh của ta có thể làm nghiêng đổ đất nước, thì một mũidao nhọn bé nhỏ này có thể làm khó được ta sao? Nhưng hôm nay ta đã phát nguyệngiữ giới, cho nên không thèm nghĩ đến thân này nữa. Nghĩ vậy rồi, Rồng liền ytheo lời Phật dạy, tự hành nhẫn nhục, nhắm mắt không nhìn, nín hơi không thở,khởi niệm từ bi đối với người thợ săn. Rồng hết lòng giữ giới, cam chịu bị lộtda, không hề hối tiếc. Da thịt bị lóc ra đỏ cả mặt đất. Hôm ấy trời nắng to,sức nóng uyển chuyển trong lòng đất, Độc long thấy rõ muôn loài vi trùng nhỏ bétừ khắp nơi tụ về ăn thịt của mình, nhưng vì giữ giới, Độc long không cảm thấysợ hãi, lại tự suy nghĩ rằng: Hôm nay ta bố thí thân này cho muôn trùng là đểvì Phật đạo. Ngày nay đem xác thịt bố thí để thành tựu cái thân viên mãn, ngàysau đem pháp bố thí để thành tựu cái tâm viên mãn. (Kinh luật dị tướng,ĐTK/ĐCTT tập 53, N° 2121 dẫn Đại trí luận, quyển 14).

Vậy rồi, thân hết, mạngdứt, Độc long liền sinh về cõi trời Đao-lợi.

29.jpg

Bốn Đại long gặp họa Chim cánh vàng, đến cầu xin Phật

Có bốn Long vương,một tên là Hấp khí, hai tên là Đại hấp khí, ba tên là Hùng-bi, bốn tên là Vôlượng sắc, đến bạch Thế Tôn rằng:

- Ở trong biển nàycó vô số loài Rồng. Có bốn loài Chim cánh vàng thường đến trong biển này để bắtcác loài Rồng để ăn thịt. Nguyện xin Phật thương xót chúng con, ủng hộ chúngcon, để cho chúng con được an ổn, không còn bị lo lắng, âu sầu, sợ hãi.

Thế Tôn cởi chiếc yđen trên thân rồi bảo với Hải long vương rằng:

- Ngươi hãy giữchiếc y đen này của Như Lai, đem phân chia cho tất cả các loài Rồng ở khắp nơi;ở trong biển lớn chỉ cần có một sợi tơ của chiếc y này thì Chim cánh vàng vươngkhông dám xúc phạm.

Bấy giờ Hải longvương nhận lấy y của Phật rồi phân chia cho các Long vương khác, tùy theo thânhình của mỗi loài rộng hẹp, lớn nhỏ mà cấp cho. Số lượng y như vậy tính rakhông thể cùng tận. Khi ấy, Hải long vương nói với các Long vương khác rằng:

- Các người phảicung kính tấm y này giống như cung kính, cúng dường xá-lợi Thế Tôn sau khi nhậpniết-bàn. Hãy dùng tất cả mọi phương tiện có được để phụng sự Thế Tôn.

Bốn Chim cánh vàngvương nghe Phật ban phép như vậy thì thảy đều kinh hãi, tức tốc bay đến chỗPhật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi kiện rằng:

- Hà cớ gì Thế Tônđoạt mất miếng ăn của chúng tôi?

Đức Phật nói:

- Có bốn cách kiếmthức ăn khiến cho chúng sanh bị đoạ vào ba đường ác. Những gì là bốn? Một là,dùng lưới vây bắt cầm thú, tàn hại muôn loài, sát sinh oan mạng… để kiếm thứcăn. Hai là, dùng gậy gộc, đao kiếm, thương trượng, xà mâu, cung tên… bức bách,đâm chém, cướp đoạt tài sản của người khác để kiếm thức ăn. Ba là, xan tham,nịnh hót, gây rối loạn, phạm cấm giới, tà kiến, lừa dối… để kiếm thức ăn. Bốnlà, không phải thầy tự xưng làm thầy, không phải Thế Tôn tự xưng là Thế Tôn,theo tà đạo mà cho mình chính, không phải tịch chí mà tự xưng tịch chí, khôngthanh tịnh tự xưng thanh tịnh, không có phạm hạnh mà tự xưng phạm hạnh… tự xưngbừa như vậy để cầu mong có được thức ăn. Bốn cách kiếm thức ăn như vậy khiếncho chúng sanh đoạ lạc vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ta thuyếtpháp là để từ diệt bốn cách kiếm thức ăn này, để chúng sanh không vì nuôi dưỡngcái thân này mà tổn hại đến các loài chúng sanh khác. Muốn tự bảo hộ thân mìnhphải biết bảo hộ thân của người khác, phải cẩn thận giữ gìn chứ có vi phạm.

Khi ấy bốn Chimcánh vàng vương, mỗi con đều đem theo ngàn quyến thuộc, tề tựu trước Phật vàbạch lời rằng:

- Hôm nay chúng conxin quy y Phật, Pháp và Tăng. Chúng con xin sám hối những lỗi lầm đã phạm trướcđây, từ nay về sau nguyện xin phụng trì cấm giới, xin lấy đức tính vô uý để banbố cho tất các loài Rồng. Chúng con nguyện ủng hộ cháp chánh, để chánh pháp củaPhật trụ vững ở tương lai; theo đạo pháp cho đến khi diệt tận, chúng con cũngkhông trái lời Phật dạy. (Kinh luật dị tướng, ĐTK/ĐCTT tập 53, N° 2121 dẫn Hảilong vương kinh, quyển 4).

Thích Nguyên Hùng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2017(Xem: 8902)
Rừng chiếm 31% diện tích đất của trái đất, là nguồn tài nguyên quý giá vô cùng của thế giới vì rừng đã tạo ra sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và phong phú các loài sinh vật; và là nơi nương tựa của hơn 1,6 tỷ người về lương thực, nước sinh hoạt, nước sạch, dược thảo, áo quần và nhà ở.[1] Không những thế, rừng giữ vai trò sinh thái cực kỳ quan trọng vì rừng giúp điều hòa không khí: cung cấp dồi dào lượng ô-xy cho con người và muôn loài động vật, vi sinh sinh vật đồng thời hấp thụ khí CO2 và những chất khí gây ô nhiễm làm sạch môi trường; chống sói mòn, hạn chế lũ lụt, hạn hán; duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất; và bảo tồn nguồn nước mặt và nước ngầm.
17/02/2017(Xem: 8832)
Lạc là vui, an có âm là yên. An lạc là yên ổn trong vui sướng. Ai cũng muốn sống trong vui sướng, không ai muốn sống trong đau khổ. Sáng nay, đứng trên cầu Hàm Luông nhìn dòng sông nhẹ trôi mà cảm nhận mọi thứ đều an lạc.
14/02/2017(Xem: 9819)
Nếu ai hỏi tôi sợ điều chi nhất ? Tôi sợ nhiều.. bóng tối cõi lòng tôi - Danh lợi mất, tôi xem rằng chưa mất - Mất lương tri là mất đã nhiều rồi!
12/02/2017(Xem: 10238)
Quá trình cân bằng tự nhiên duy trì sự sống bị phá vỡ khi có sự can thiệp bất cẩn của con người vào thiên thiên. Những hoạt động của con người như khai thác quá nhiều nhiên liệu hóa thạch, nông nghiệp hiện đại như chăn nuôi, dùng thuốc hóa học, trừ sâu, diệt cỏ, khai thác rừng bừa bãi, các ngành công nghiệp nặng, ngành vận tải, vv… làm gia tăng đáng kể lượng khí gây hiệu ứng nhà kính, tạo thành một ‘tấm kính lớn’ phản chiếu ngược lại đốt nóng Trái đất của chúng ta, tận diệt “Đất Mẹ”.
11/02/2017(Xem: 9483)
Cuốn Tưởng niệm Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải" của nhiều tác giả.
11/02/2017(Xem: 8716)
Có một mảnh đất (đúng hơn là khu núi và rừng) rộng chừng gần 20 héc ta, cách Thủ đô Băng Cốc của Thái Lan khoảng 300 km tại khu vực Khao Yai được biết đến là Làng Mai Thái Lan. Có người gọi vùng đất này là Pack Chong. Có người tìm về Khao Yai. Nhưng ai đó bắt xe về Làng Mai. Cả tây lẫn ta. Cả người Thái, người phương tây, lẫn người các nước khác nhau trên thế giới và người Việt.
08/02/2017(Xem: 6102)
Lẽ ra trưa nay tôi đã không gặp được Thiền sư Thích Nhất Hạnh bởi tôi luôn chọn cho mình 1 góc riêng trong trai đường để ngồi ăn trưa, tránh tối đa tiếp xúc với mọi người, để có thời ăn trưa thật sự trong chánh niệm. Tuy nhiên vừa đặt cơm xuống bàn thì thầy Từ Thông xuất hiện ngồi xuống ngay đối diện tôi. Dĩ nhiên rằng cả 2 thầy trò đã hoàn toàn im lặng và rất chánh niệm trong bữa ăn. Sau đó 2 thầy trò mới dành thời gian bàn về chuyện thiền, chuyện đạo. Đã hơn 12 giờ trưa.
08/02/2017(Xem: 14405)
Xưa nay KINH DỊCH thường được xem là sáng tác của Trung Hoa. ngộ nhận này kéo dài hơn 2500, nay phải được thay đổi cách nhìn để phù hợp với sự thực của lịch sử. KINH DỊCH LÀ SÁNG TÁC CỦA VIỆT NAM, TRUNG QUỐC CHỈ CÓ CÔNG QUẢNG DIỄN VÀ PHỔ BIẾN.
08/02/2017(Xem: 7916)
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai Đó là Xuân của Ngài Thiền Sư Mãn Giác, Xuân của Phật Pháp là vậy. Thêm một mùa Xuân nữa trôi qua trên xứ người, 42 mùa xuân viễn xứ. Chúng ta tự hỏi, mỗi một người đã góp công góp sức cho đời, cho đạo được bao nhiêu lợi tha. Trong kinh Đại Trí Độ Luận, đức Phật có dạy rằng: Mọi việc xảy ra trong đời này có thể tốt với người này mà cũng có thể trở thành xấu với người kia. Tất cả cũng đều do nhân duyên thành tựu và cũng từ nhân duyên nó cũng sẽ tan rã ra. Trùng trùng duyên khởi và trùng trùng biến hiện là vậy.
07/02/2017(Xem: 7721)
Nhân - quả là một hệ luận diễn tiến khá chặt chẻ, đành rằng nhân-quả tương tục, nhưng không chỉ đơn thuần nhân nào quả đó một cách đơn giản; ví dụ anh A bị anh B làm khổ vì kiếp trước anh B làm khổ anh A. Nếu truy nguyên mãi người nầy làm khổ người kia do người kia làm khổ người nầy, cứ lòng vòng kéo dài mãi thì nguyên nhân đầu tiên do ai và tại sao?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]