Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chánh tín và Mê tín

21/09/201013:19(Xem: 8220)
Chánh tín và Mê tín


Phat_Thich_Ca_12
Qua Hình Ảnh Hoa Mạn Đà La Trong Các Lễ Cung Nghinh Phật Ngọc

Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.

Trướcmột sự kiện quan trọng như vậy, thiết nghĩ cần có thêm nhiều ý kiến xâydựng để giúp làm sáng tỏ vấn đề. Trong tinh thần xây dựng đó, người viết bài này xin trình bày một số quan điểm liên quan đến vấn đề chánh tín và mê tín trong Phật Giáo nói chung và trong hiện tượng Mạn Đà La của những buổi lễ cung nghinh Phật Ngọc nói riêng.

Trướchết, xin tán tán tinh thần cảnh giác để tránh tình trạng mê tín lan rộng ra làm ảnh hưởng đến chánh tín của người con Phật. Vì bổn phận của người Phật tử là phải nêu cao giá trị và lợi ích của chánh tín đối với Tam Bảo, đối với chánh pháp của đức Phật để giúp làm lợi lạc con đường tu tập giải mê trừ hoặc.

Vậy, thế nào là chánh tín và mê tín?

Chánhtín trong Phật Giáo là niềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo, vào chánh pháp của Phật dạy, là niềm tin giúp con ngườihướng thiện, bỏ ác làm lành, diệt trừ khổ não, đoạn trừ phiền não tham sân si, giác ngộ chân tánh, đạt tới quả vị giải thoát. Ngược lại, mê tíntheo Phật Giáo là niềm tin không được thực chứng bởi trí tuệ, là niềm tin không dựa vào nhân quả, nghiệp báo, không tin Tam Bảo, không tin chánh pháp, không giúp con người hướng thiện để bỏ ác làm lành và diệt trừ phiền não tham sân si, là niềm tin không giúp con người giác ngộ chân tánh để đạt tới quả vị giải thoát.

Nhưng,vì chúng sinh có nhiều trình độ căn cơ khác nhau, người lợi căn, kẻ độncăn, cho nên nhận thức và niềm tin đối với chánh pháp cũng có sai biệt.Vì thế, chánh tín cũng có nhiều cấp độ.

Chínhvì vậy, đức Phật mở ra Ngũ Thừa để tùy căn cơ mà độ. Ngũ thừa là Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Giống như mở trường dạy học thì phải có chương trình học cho từng cấp như mẫu giáo, tiểu học, trung học đệ nhất cấp, trung học đệ nhị cấp, cao đẳng, đại học và hậu đại học. Nhân thừa lấy việc quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, tu mười điều thiện ở cấp trung bình làm nền tảng. Thiên thừa lấy việc tu tập mười điều thiện trọn vẹn và thực hành thiền định làm nền tảng. Thanh Văn thừa lấy việc tu tập theo Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo làmnền tảng để ra khỏi ba cõi sáu đường. Duyên Giác thừa lấy việc quán mười hai nhân duyên: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử làm nền tảng để chấm dứt sanh tử luân hồi, đạt tới sự giác ngộ của quả vị Độc Giác Phật. Bồ Tát thừa lấy việc thực hành sáu ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ làm nền tảng để thành tựu Phật quả cho mình và chúng sinh.

Trongmỗi thừa cũng có căn cơ lợi độn khác nhau và do đó có sự liễu ngộ, chứng đắc khác nhau. Chính vì vậy, không thể đem kiến giải và niềm tin của người thực hành Thừa này so sánh hay thẩm định về kiến giải và niềm tin của người hành trì Thừa kia. Kiến giải và niềm tin của một người ở Nhân thừa làm sao sánh được với kiến giải và niềm tin của vị đã bước vào4 thánh quả Thanh Văn? Lúc Tổ Bồ Đề Đạt Ma gặp Vua Lương Võ Đế, nhà vuahỏi rằng bao lâu nay làm việc bố thí, đúc tượng, xây chùa thì có công đức không? Tổ Đạt Ma đáp ngay: Không có chút công đức nào cả. Như vậy cũng không có nghĩa là Vua Lương Võ Đế đã làm sai. Tổ nói theo chỗ chứngđắc cao sâu của ngài rằng “tất cả các pháp hữu vi đều là giả như mộng, như quáng nắng, như điện chớp, như bong bóng nước,” thì làm gì có công đức hay không. Còn Vua Lương Võ Đế nương theo pháp hữu vi của Nhân, Thiên thừa để nhập đạo thì làm sao với tới được. Cho nên, Tổ Đạt Ma đã vào núi Thiếu Lâm để ngồi diện bích chờ Thần Quang đến cầu đạo và thấy đúng căn cơ mới đem cốt tủy của Thiền mà “dĩ tâm truyền tâm” cho.

ĐứcPhật khi mới đắc quả Vô Thượng Bồ Đề dưới gốc cây Tất Bát La đã nhập đại định Hải Ấn Tam Muội nói pháp thượng thừa viên giáo cho hàng đại bồ tát. Ngài còn suy nghĩ với căn cơ kém cỏi của chúng sinh thì làm sao kham nổi để lãnh thọ giáo pháp cao sâu vi diệu mà ngài vừa chứng ngộ. Nhưng, rồi đức Phật suy nghĩ đến cái khổ vô lượng mà chúng sinh đang gánh chịu, suy nghĩ đến nguyện lực độ sinh của mười phương chư Phật đã, đang và sẽ thực hành, suy nghĩ đến căn cơ sai biệt của chúng sinh giống như sen trong ao bùn: có cái còn ở trong bùn, có cái đã mọc lên khỏi nước, có cái còn búp, có cái đã hé nụ. Cho nên, đức Phật đã quyết định đem giáo pháp mà ngài đã chứng để tùy căn cơ chúng sinh mà hóa độ.

Vậymà, phải đợi cho đến gần cuối đời, đức Phật mới nói ra mục tiêu tối thượng nơi hội Linh Sơn, rằng Ngài ra đời để nói pháp Nhất Thừa, độ chúng sinh làm Phật chứ không có thừa nào khác. Nhị thừa, tam thừa chỉ là phương tiện như hóa thành. Nhất thừa mới là bảo thành cứu cánh. Tronghội Pháp Hoa nơi núi Kênh Kênh này, chư thiên đã rải hoa Mạn Đà La, hoaMạn Thù Sa, v.v… để cúng dường đức Phật và đại chúng.

Nóinhư vậy để cho thấy rằng dù đức Phật là vị đã đạt tới giác ngộ và giải thoát viên mãn, ngài vẫn thiết lập phương tiện để độ những chúng sinh phước mỏng nghiệp dày, căn cơ thô lậu. Đối với bậc thượng căn, thượng trí quán chiếu các pháp như không hoa, tâm thong dong tự tại không bị trói buộc vào hình danh sắc tướng thì không cần dựa vào hình tượng để làm nghi biểu cho sự tu tập. Nhưng, đối với hàng phàm phu chúng sinh căntrí kém cỏi thì phương tiện không thể bỏ, hình danh sắc tướng không thểphá, mà cần phải biết vận dụng để dìu dắt, như người không biết bơi muốn qua sông thì phải cần đến ghe thuyền.

Từđó mới thấy rằng việc cung nghinh Phật Ngọc là lợi lạc tâm linh cho nhiều người. Đừng nói đâu xa, chỉ ngay tại thành phố Escondido, thuộc Quận San Diego nơi có Tu Viện Pháp Vương. Hàng chục năm nay, những ngườiMỹ láng giềng không khi nào bước chân vào, dù có người cũng biết đó là một ngôi chùa Phật Giáo. Nhưng trong thời gian lễ cung nghinh Phật Ngọc vào đầu tháng 2 năm 2010, hàng trăm, hàng ngàn người Mỹ đã về Tu Viện đểchiêm bái Phật Ngọc. Bản thân người viết bài này, đã có dịp hỏi chuyện một phụ nữ Mỹ đến dự lễ khai mạc cung nghinh Phật Ngọc vào ngày 7 tháng 2năm 2010 tại Tu Viện Pháp Vương, được bà cho biết rằng nhà bà ở ngay bên kia đường chỉ cách Tu Viện có mấy chục thước, nhưng lâu nay bà chưa hề vào Tu Viện. Nay bà nghe có Phật Ngọc đến nên mới vào Tu Viện để chiêm ngưỡng.

Cóngười sẽ cười và nói rằng họ chỉ đến chùa lễ Phật một lần chứ đâu có làm Phật tử trọn đời? Xin đừng quên rằng trong Kinh Pháp Hoa đức Phật dạy rằng, “Dù người với tâm tán loạn vào trong tháp miếu, chỉ một lần niệm Nam Mô Phật thì cũng thành Phật.” Quả vậy, chỉ một lần kết duyên lành với Phật, dù là với tượng Phật Ngọc, thì tương lai sẽ thành Phật. Không quý giá lắm sao?

Sự kiện hoa Mạn Đà La trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc là thật hay do người cố tình tạo ra?

Trướchết xin nói qua về hoa Mạn Đà La. Hoa Mạn Đà La là một loại hoa có hìnhdạng Mạn Đà La dùng để cúng dường chư Phật và Thánh Chúng thường được nhắc đến trong nhiều Kinh Đại Thừa như Kinh A Di Đà, Kinh Pháp Hoa, v.v... Theo Bách Khoa Tự Điển Điện Tử Wikipedia (www.wikipedia.org), Mạn đà la là dịch âm chữ Hán từ chữ Phạn Mandala, có nghĩa là “vòng tròn,” tức viên dung. Trong truyền thống của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo, nghệ thuật thiêng liêng của hai tôn giáo này thường lấy hình Mạn đà la làm biểu tượng. Hình thức căn bản của các Mạn đà la trong Ấn giáo và Phật giáo là một hình vuông với bốn cửa chứa đựng trong một vòng tròn với điểm trung tâm ở giữa. Những Mạn đà la này có ý nghĩa tâm linh và lễnghi với Phật giáo và Ấn giáo. Trong Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng, Mạn đà la đã được phát triển trong nghệ thuật vẽ bằng cát. Mạn đà la cũng là một bộ phận chủ yếu của việc thực hành thiền. Trong Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng thường dùng Mạn đà la để mô tả Phật độ, hay trí tuệ giác ngộ của Phật, đại biểu tính thường nghiệm và phức tạp của tâm giác ngộ và tâm vọng động, hay là một tiểu vũ trụ tượng trưng cho năng lực siêu việt trong vũ trụ. Những Mạn đà la như vậy gồm phần ngoài là một vòng tròn và phần trong là hình vuông với “tòa” mạn đà la đặt ở giữa. Muốn biết rõ về Mạn Đà La thì có thể vào các trang mạng Phật Giáo Việt Nam để đọc nhiều bài viết giải thích về Mạn Đà La, trong số đó có bài viết khá công phu mang tựa đề “Tìm Hiểu Mạn Đà La” của tác giả Võ Quang Nhân được đăng trên trang nhà Hoa Vô Ưu, Thư Viện Hoa Sen: www.thuvienhoasen.org

Sựkiện hoa Mạn Đà La trong lễ cung nghinh Phật Ngọc là thật. Thật, trong ýnghĩa rằng các hình ảnh đó đã được máy quay phim và máy hình chụp tại chỗ và đưa ngay lên trang mạng trước sự chứng kiến của nhiều tăng, ni vàPhật tử mà người viết bài này được biết trực tiếp tại Tu Viện Pháp Vương, thành phố San Diego, Hoa Kỳ, vào lúc khoảng 4 giờ chiều ngày khai mạc, mùng 7 tháng 2 năm 2010, và đêm ngày 16 tháng 2 năm 2010 lúc tiễn tượng Phật Ngọc đi. Thật, trong ý nghĩa hoàn toàn không có bất cứ một hành vi sửa đổi hay tái tạo nào trên những tấm hình đó do Tu Viện Pháp Vương chụp và được đăng trên trang nhà Pháp Vân (www.phapvan.ca), trang nhà Hải Triều Âm (www.haitrieuam.net), trang nhà Quảng Đức (www.quangduc.com), v.v…

Sởdĩ người viết phải nhấn mạnh đến sự kiện “thật, trong ý nghĩa…,” bởi vìđó là những gì chư tăng, ni và phật tử chứng kiến tại chỗ. Nhưng, các hình hoa Mạn Đà La đó chỉ thấy được qua máy thu hình và máy chụp hình màkhông thể thấy được bằng mắt bên ngoài trời, nếu không có những máy hình đó. Thấy bằng mắt bên ngoài trời là hình ảnh mặt trời biến đổi màu sắc rất kỳ lạ vào buổi chiều lễ Khai Mạc, ngày 7 tháng 2 năm 2010, tại Tu Viện Pháp Vương mà rất nhiều người có mặt tại chỗ đều chứng kiến kể cả người viết bài này.

Cóngười nói các tấm hình đó là do “phản chiếu ánh đèn sáng,” mà ra. Lúc chụp hình bị ánh đèn phản chiếu tạo ra các hình tròn sáng, thậm chí có màu sắc, là điều bình thường. Vấn đề là, trên các hình hoa Mạn Đà La chụp được trong lễ cung nghinh Phật Ngọc thì hình Mạn Đà La hiện ra rất rõ, không thể nào nhầm lẫn với hình do ánh đèn phản chiếu được.

Ngườiviết bài ngày chỉ đề cập đến hình hoa Mạn Đà La được chụp tại Tu Viện Pháp Vương bởi vì chính bản thân người viết trực tiếp biết việc này. Người viết cũng tin chắc rằng chư tăng, ni và phật tử tại những ngôi chùa khác có cung nghinh Phật Ngọc và có hình hoa Mạn Đà La đều là thật,nghĩa là các hình đó được chụp và đưa lên mạng trực tiếp chứ không qua bất cứ sự sửa đổi, giả tạo nào cả. Nhiều bản tin và bài viết tường thuậtvề sự kiện hoa Mạn Đà La trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc ở nhiều chùa tại Hoa Kỳ trong thời gian qua đã cho thấy mức độ khả tín và chính xác như thế nào.

Tin hình hoa Mạn Đà La chụp được trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc có phải là mê tín?

Khichứng kiến hình ảnh kỳ diệu của ánh mặt trời đổi sắc và khi nhìn những tấm hình hoa Mạn Đà La qua máy chụp hình trong đêm cung tiễn Phật Ngọc tại Tu Viện Pháp Vương, người viết bài này đã thấy những xúc động, nhữnggiọt nước mắt trên gương mặt hoan hỷ của nhiều người vì cảm kích một sựkiện hy hữu trong đời. Người viết bài này và nhiều Phật tử có mặt đều có cùng cảm nghĩ, rằng sự kiện hoa Mạn Đà La làm vững mạnh thêm chánh tín cho mình, bởi vì qua đó có thể thâm cảm rằng:

-Phật đúng là bậc thầy của trời và người. Tượng Phật Ngọc mà còn được cung kính rải hoa Mạn Đà La cúng dường như vậy thì đức Phật báo ứng thâncàng được tôn kính biết bao nhiêu. Từ đó mới thấy rằng ân đức, đoạn đứcvà trí đức của Phật quả thật bao la vô lượng.

-Những gì Phật dạy trong kinh là hoàn toàn thật. Chẳng hạn, kinh diễn tảcảnh hoa Mạn Đà La được rải xuống để cúng dường Phật, thì hình ảnh hoa Mạn Đà La trong lễ cung nghinh Phật Ngọc là một bằng chứng cho thấy đó là sự thật.

-Nhờ tăng trưởng chánh tín như vậy, càng tin sâu Tam Bảo, tin sâu nhân quả, nghiệp báo và càng nỗ lực thực hành theo lời Phật dạy.

Niềmtin giúp củng cố thêm đạo tâm, thêm niềm tin với Tam Bảo để tiếp tục vững bước trên con đường học và tu đối với Phật Pháp như vậy làm sao là mê tín?

Đốivới người viết, vấn đề thật sự đơn giản và dễ hiểu, bởi vì, chúng ta, những Phật tử ở nhân gian, đối với tượng Phật Ngọc vì tôn kính như là hình ảnh biểu tượng của đức Phật, cho nên đã dâng hoa để cúng dường ngài, thì chư thiên cũng vậy, họ cũng tôn kính tượng Phật Ngọc nên đã rải hoa Mạn Đà La để cúng dường.

Vấnđề là cần cảnh giác để ngăn chận những thị phi bất thiện là đừng khởi tâm phân biệt, đừng nghĩ rằng sự kiện hoa Mạn Đà La xảy ra nhiều trong các buổi lễ cung nghinh Phật Ngọc tại các chùa là chuyện không thể có, hay thậm chí là chuyện bịa đặt để lôi cuốn quần chúng nhằm mục đích làm lợi cho chùa. Xin cũng đừng nghĩ rằng chùa nào rước Phật Ngọc mà có hoa Mạn Đà La mới là chùa linh. Những suy nghĩ như vậy sẽ đánh mất chánh tíncủa người con Phật.

Sự mầu nhiệm của Phật Pháp không thể lấy lý trí phàm phu hay tâm phân biệt để đo lường được.

Sựcảm ứng là do nhân duyên đầy đủ. Ngay như thời Phật còn tại thế đâu phải ai cũng được Phật độ dù là có dịp gặp ngài trên đường du hóa, vì chuyện Phật độ hết chúng sinh trong một đời thị hiện của ngài là điều không thể có được. Chính đức Phật cũng dạy rằng những ai có duyên được độ thì ngài đã độ. Những ai không có duyên thì ngài cũng đã tạo duyên đểđược độ trong tương lai qua phương thức chánh pháp lưu truyền.

Tómlại, đã tin lời Phật dạy, tin kinh điển là chánh pháp thì sự kiện hoa Mạn Đà La xuất hiện trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc cũng là điều phù hợp với chánh lý, là chánh tín, chứ không phải mê tín.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/10/2014(Xem: 8169)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8468)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7301)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8391)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
13/10/2014(Xem: 10470)
Vào ngày 21 tháng Chín, đông đảo công dân từ khắp nơi trên nước Mỹ, và từ nhiều vùng đất khác, sẽ được hội tụ về thành phố New York tham gia vào cuộc diễu hành về sự biến đổi Khí hậu (The People’s Climate March), đây được cho là cuộc diễu hành vì khí hậu lớn nhất trong lịch sử. Cơ hội trực tiếp cho cuộc diễu hành là sự tập hợp của các nhà lãnh đạo thế giới tại Liên Hiệp Quốc dành cho một hội nghị thượng đỉnh về sự khủng hoảng khí hậu được triệu tập bởi Tổng thư ký LHQ. Mục đích của cuộc diễu hành là báo cho các nhà lãnh đạo toàn cầu biết rằng thời gian để từ chối và trì hoãn đã qua, chúng ta phải hành động ngay nếu chúng ta muốn bảo vệ thế giới chống lại sự tàn phá về sự biến đổi khí hậu.
12/10/2014(Xem: 11349)
Các nhà văn và nhà báo đều có tầm ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Vả lại, dù cho đời người có ngắn ngủi đi nữa thì những gì đã viết cũng sẽ còn lưu lại hàng nhiều thế kỷ. Trong lãnh vực Phật giáo thì những lời giáo huấn của Đức Phật, của ngài Tịch Thiên và của những vị đại sư khác nhờ được ghi chép lại thành văn bản nên đã được lưu truyền qua những thời gian lâu dài để nói lên tình thương yêu, lòng từ bi và những hành vi vị tha phát xuất từ tinh thần Giác ngộ mà cho đến tận ngày nay vẫn còn giúp chúng ta cơ duyên được học hỏi.
11/10/2014(Xem: 8689)
18 giờ tối ngày 9/10/2014, đông đảo Phật tử, doanh nhân, sinh viên và các bạn yêu đọc sách đã được học hỏi rất nhiều từ thiền sư Minh Niệm, tác giả cuốn sách “Hiểu về trái tim” tại nhà sách Thái Hà ( số 119, C5, phố Tô Hiệu, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Cá nhân tôi cũng vậy. Tôi học được rất rất nhiều. Thầy Minh Niệm đã chia sẻ nhiều trải nghiệm sâu sắc, phong phú của chính thầy đến với những ai may mắn có mặt để giao lưu, để lắng nghe. Đối với rất nhiều người, đó là những điều mới mẻ và hữu ích.
10/10/2014(Xem: 8300)
Vào năm 2004 lực lượng Hồi giáo cực đoan Taliban chiếm toàn bộ khu vực thung lũng Swat, nơi em đang sống bình yên với bố mẹ và hai người em, hằng ngày cắp sách đến trường. Tiếp đó, từ năm 2007, Taliban cấm phụ nữ không nghe nhạc và hạn chế họ lui tới nhiều cơ sở công cộng. Đến 15.01.2009 thì Taliban lại ban hành một sắc lệnh mới cấm các em học sinh nữ đi học, phá hủy khoảng 150 trường học. Thời gian này đài BBC phổ biến một tập nhật ký của một cô gái Pakistan 11 tuổi có tên là Gul Makai bằng tiếng Urdu trên trang Blog của đài BBC. Sau này người ta mới biết được Gul Makai là bút hiệu của Malala Yousafzai.
08/10/2014(Xem: 10216)
Ông Dan Stevenson không phải là một Phật Tử, cũng không theo một tôn giáo có tổ chức nào cả. Ông là một người dân cư ngụ trên đại lộ số 11 ở khu Eastlake của Oakland (California.) Vào năm 2009, khi ông đi vào trong cửa tiệm Ace chuyên bán vật dụng sắt thép dùng trong nhà, ông chợt hứng khởi phát tâm và đã bỏ tiền mua một pho tượng đức Phật bằng đá cao 2 feet (khoảng tương đương với hơn 60 cm). Sau đó ông mang về và gắn tượng Phật này vào một góc đường trong khu gia cư giữa đại lộ số 11 và con đường số 19.
06/10/2014(Xem: 9397)
“The History of Sampan” “Chiếc thuyền này thường xuyên được neo tại đây vốn là chiếc thuyền của người Việt Nam di tản, đã dạt vào bờ này với 167 người lớn và trẻ em vào tháng 5-1980 …May thay một thời kỳ non trẻ đã trôi qua, nhiều kinh nghiệm quý báu đã được tổng kết, người ta đã biết đắn đo hơn khi nói về một thời đã qua. Ngày nay Việt Nam là một cộng đồng hòa hợp tốt đẹp hơn xưa, thậm chí còn là chỗ “thích nghi” cho một số người nước ngoài, là “điểm đến” cho doanh nhân và du khách. Có những điều tưởng như giản đơn nhưng con người cần cả một thế hệ mới hiểu hết. Bài học của hòa hợp dân tộc và lòng cởi mở nhân ái ngày xưa của vua Trần dường như bị quên mất sau nhiều thời kỳ chiến tranh và chia cắt khốc liệt, nay cần phải được ôn lại…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]