Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo

09/01/201213:27(Xem: 14479)
Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo
lotus_53
HẠNH PHÚC
THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO

Thích Trí Giải

Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn,khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau. Loài thúcũng biết tổ chức theo từng đàn để bảo vệ cho nhau.

Chúng cũng có cảm xúc âu yếm, đùa giỡn bên nhau, đó làsự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Nhưng chúng không biết tư duy, vì vậy chúng vẫnlà loài thú.

Con người biết tư duy, có tổ chức thành gia đình, làngxóm, và hình thành cộng đồng xã hội. Con người hành nhiều nghề khác nhau để duytrì cuộc sống.

Ngoài vấn đề ăn mặc, con người sản sinh ra nhiều nétvăn hóa như nghệ thuật, thẩm mỹ, thơ ca, khoa học…Mục đích của con người nhằmmưu cầu, tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mỗi người. Ở đây người viết xin trình bàythế nào là chân hạnh phúc con người cần nên tìm

I. Nhómhạnh phúc thứ nhất là con người biết an phận:

Quan niệm của họ là xây dựng một mái ấm gia đình nhonhỏ, vợ chồng con cái sống an vui, hòa thuận, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Họkhông ước vọng cao sang tiện nghi vật chất; cơm đủ ăn, áo mặc đủ ấm là hạnhphúc, phần đông họ sống ở nông thôn, làm nghề nông, trồng trọt, chăn nuôi vàcác nghề thủ công, có một số ở thành phố là những giáo viên, công chức. Hạnhphúc của họ quả thật đơn sơ nhưng không kém phần nên thơ lý tưởng:

“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng hòa, vợ thuận, gật đầu khen ngon”
(Ca dao Việt Nam)

II. Nhómhạnh phúc thứ hai ước vọng cao hơn, phù hợp với xã hội phát triển ngày nay:

Phần lớn họ sống ở thành thị, có chung ước vọng họchành, có bằng cấp, có địa vị, danh vọng, tiền của, nhà cửa cao sang, huy hoàngvà lộng lẫy, vợ đẹp con xinh, đầy đủ tiện nghi, theo cách nghĩ của họ sống màthiếu tiện nghi là không có hạnh phúc. Bởi vì họ là người tạo ra của cải vậtchất nên họ có quyền thụ hưởng, cho rằng đó là hạnh phúc cuộc đời.

III. Nhómhạnh phúc thứ ba thanh cao hơn, đó là những vị ẩn sĩ sống nơi non cao, núi thẳm.

Họ muốn ra khỏi chốn hồng trần đầy đau khổ này. Hay lànhững người Phật tử hiểu được chân lý của cuộc đời, sống cuộc sống thiểu dụctri túc, vui với đạo, vui với nội tâm, không màng đến danh lợi, họ tìm cuộcsống hạnh phúc thanh cao hơn, tao nhã hơn. Hằng ngày làm bạn với cỏ cây, sôngnúi, vui bên chén trà, nghe tiếng chim hót, hay là tụng Kinh, ngồi thiền… cóphải hạnh phúc của họ được mong cầu lên cảnh giới chư thiên hưởng thú vui dụclạc trên ấy hay không?

“Cuộc thế công danh mơ tưởng hão
Bầu tiên phong nguyệt thú vui cùng”
( Lê Thánh Tông)

Trên đây chỉ phân tích theo từng nhóm. Người viết muốnnêu lên hạnh phúc cụ thể hơn, tùy theo độ tuổi, tùy theo hoàn cảnh sống, tùytheo địa vị xã hội. Hạnh phúc của em bé là được vuốt ve, âu yếm của người mẹ,được bú mớm, được cưng chiều, hạnh phúc của nó là ở gần bên cha me, gần bênngười thân yêu.

Có người cho rằng hạnh phúc là những điều mình mongmuốn, có người thấy thân mình đẹp, đoan trang là hạnh phúc, có người cho rằngmạnh khỏe không bệnh tật là hạnh phúc…những điều hạnh phúc nêu trên thật sựkhông bền chắc.

Nếu đem trí tuệ của đạo Phật mà quán chiếu thì thấynhững hạnh phúc ấy mong manh, dễ tan vỡ như giọt sương lúc ánh nắng ban mai, vìbản chất cuộc đời là vô thường, duyên sinh vô ngã,

“Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp
( Pháp cú 170 )

Ngài Vạn Hạnh thiền sư đã “Thị Đệ Tử ”bằng bài kệ

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.

Những hạnh phúc này theo lăng kính của Đạo Phật thìchúng chính là mầm mống của sự khổ đau vì chất chứa nhiều sự lo âu, phiền não,sầu khổ. Ví dụ: Có người nói rằng, gần người mình yêu là hạnh phúc. Bạn có chắcchắn rằng người yêu ấy có chung thủy với bạn suốt đời không? Người yêu ấy khôngcó bị sanh, lão, bịnh, tử không?

Nếu như tất cả đều theo ý muốn của bạn thì quan niệmhạnh phúc của bạn là đúng. Nhưng có bao giờ được như vậy không? Có những đôitình nhân nghĩ rằng được sống gần bên nhau là hạnh phúc. Nhưng cuộc sống baogiờ cũng có hợp ắt phải có chia lìa, yêu nhau xa nhau sinh ra sầu khổ (ái biệtly khổ). Trong cái hợp đã có mầm móng của sự chia lìa.

Điều họ nghĩ: “đaukhổ vì nhau, buồn nhớ vì nhau là hạnh phúc”hạnh phúc của họ là thứ hạnh phúc chờđợi héo mòn, và hạnh phúc của sự âu lo. Thật sự, hạnh phúc của ái tình rất mongmanh, chóng tàn, là thứ tạm bợ, giả tạm mà có trong chốc lát, chứ không phảihạnh phúc miên viễn.

Vì sao nói hạnh phúc của thế gian luôn luôn có sự ưunão, buồn khổ? Bởi vì, hạnh phúc ấy xuất phát từ lòng tham ái, chấp thủ. Ở đâucó mặt của tham ái, ở nơi đó có mặt của đau thương và thù hận.

Nhất là trong vấn đề tình yêu đôi lứa thường hay thờthốt với nhau, tiếng nói ấy cũng chính từ cái tâm chấp ngã mà có đôi khi đểđánh lừa đối tượng, không phải thứ tình yêu chân thật.

Một người có tình yêu chân thật thì luôn có sự hy sinhvà trao tặng cho người mình yêu thương, không mong cầu đón nhận. Tình yêu còncó bản ngã, còn có chấp thủ thì sao có sự hạnh phúc chân thật và bền vững được.Nên chúng ta hãy xem quan niệm hạnh phúc trong phật giáo như thế nào?

IV. Hạnhphúc theo quan điểm của Phật giáo

Hạnh phúc trong Đạo Phật luôn luôn đòi hỏi sự hành trìthâm hậu ở mỗi con người. Con người luôn ý thức và làm chủ ngũ dục (tài, sắc,danh, thực, thùy) và những vật chất hữu vi chỉ là phương tiện sống. Mục đíchchính là con người phải biết quay về đời sống tinh thần tu tập diệt trừ mọiphiền não để tâm hồn thanh tịnh, an lạc ngay trong kiếp sống hiện tại.

Đạo Phật không quan niệm vàng bạc, ngọc ngà châu báulà hạnh phúc, Hạnh phúc càng không phải đặt chân vào lâu đài tình ái. Hạnh phúckhông phải hình thành từ chất liệu ngũ dục thế gian…không phải chạy theo tiếnggọi của mỹ nhân để được nghe lời hay ngọt ngào, âu yếm cho là hạnh phúc, nhữngthứ này chỉ làm cho tâm con người quay cuồng trong vòng xoay sinh tử, khôngbiết bao giờ ngưng nghỉ, và tạo thêm khổ đau.

Hạnh phúc là những ai biết quay về với đời sống tâmlinh cao cả, đó là phần tinh ba cao quý nhất của con người, sống quay về vớichính mình và giây phút hiện tại. Nếu chúng ta rời khỏi mình mà chạy tìm cầu ởngoài thì làm mất đi cái gì quý giá nhất, lạc vào tà kiến, ấy chính là quên đicái sáng suốt vốn có của mình (Phật Tính). Từ trong bóng đêm vô minh mù mịttrải qua hàng vạn kiếp, tâm hồn ta trôi giạt trong biển đời mênh mông, như contàu lênh đênh bị sóng gió dập dồi ở ngoài biển khơi không bến bờ nương tựa. Đóchính là biển ái dục và bão tố vô minh, vùi dập chúng ta quay vòng trong sinhtử vô tận.

Chúng ta học Phật Pháp một cách sâu xa và chắc chắntrong tay có được một ngọn đuốc sáng trên con đường đi tìm chân hạnh phúc. Giátrị nhiệm màu của đạo Phật là “tri”“hành”chứ không phải dùng để nói suông, càngthực hành sâu chừng nào mới thấy giá trị Phật pháp cao siêu chừng đó.

Đức phật tuyên bố: “Giảithoát an lạc, giác ngộ và tịnh độ đều ở ngay trong tâm của chúng ta” hay là “Ta đến đây không phải cứu độ cácngươi, Ta đến đây cốt là để chỉ đường đi sáng suốt cho các ngươi. Các ngươi hãynoi theo đó mà tiến hóa giác ngộ để tự độ lấy mình.”“Ngươi là ngọn đuốc và là nơi nươngnáu cho chính ngươi. Ngươi đừng tự phó thác vào chốn dung thân nào khác”

Hạnh phúc mà Đức Phật muốn dạy chúng ta đạt đến làcảnh giới Niết bàn tại tâm. Niết Bàn là Bản Thể chân thực của ta, củaquần sinh và vũ trụ.

Niết Bàn là hạnh phúc.

Niết Bàn ở sẵn trong tâm khảm con người.

Niết bàn là Chân Thường, Hằng Cửu.

Niết Bàn là một trạng thái tĩnh lặng, bất biến.

Niết bàn có thể thực hiện ngay trong cõi đời này.

Như vậy Niết Bàn là trạng thái mà ta có thể tự tạo chota, ban bố cho ta, chứ không do một vị Thần Phật ngoại tại nào. Tại sao vậy?Thưa chính là vì ta đã nhập thể với Bản Thể vũ trụ, nguồn sinh xuất ra vũ trụ,và chư Phật, chư Hiền Thánh Tăng.

Đến đây tôi sực nhớ lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Các ngươi hãynỗ lực lên. Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ, chứ không giác ngộ thế choai được. Sự trói buộc củama vương sẽ tùy sức thiền định của ngươi mà được cởi mở.” (Kinh Pháp Cú276)

Mới hay công trình tu trì, giải thoát của con ngườicũng đã chịu một định luật thiên nhiên chi phối. Đó là: “Linh tại Ngã, bấtlinh tại Ngã” (Hay tại ta, dở cũng tại ta).

Nếu Niết Bàn là hạnh phúc, là bất biến, là trạng tháicó thể thực hiện ngay ở đời này, thì dĩ nhiên là nếu có được hạnh phúc bây giờ,thì hạnh phúc ấy cũng không thua kém hạnh phúc hưởng được sau khi nhắm mắt tắthơi.

Nhận định này hết sức quan trọng. Bởi vì ngay từ trongcuộc sống hiện tiền của chúng ta có thể đạt được một trạng thái cao siêu nhấtmà trời đất có thể dành để cho chúng ta. Nếu cuộc sống hiện tại chúng ta chưađạt được an lạc nội tâm thì đừng có mơ tưởng viễn vong đến thế giới cao xa

Vì vậy con đường giải thoát là tìm Chân Tâm tự nơimình:

“Hướng ngoại mà tìm cầu,
Tất cả đều ngu si.
Hướng nội mà tùy xứ tiện nghi,
Tất cả đều là chân thật.” [1]

Lục Tổ Huệ Năng nói: trong Pháp Bảo Đàn Kinh: “Tựmình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy Phật ở Tự Tâm mình, độ lấymình mới được” [2]

Như vậy châm ngôn để đi tìm chân lý sẽ là:

Con đường hướng nội tiến cho sâu,
Càng sâu, càng thấy lắm nhiệm mầu.
Tâm khảm bao la không bờ bến,
Vũ trụ mênh mông đã thấm đâu.

Vậy muốn tìm Chân Tâm, muốn tìm Phật Tính, phải tìmngay trong người mình, trong lòng mình.

Phật bảo A Nan: ChânTính đã ở nơi ngươi mà ngươi chẳng tin, lại theo nơi miệng ta mà tìm Chân Tính,vậy ngươi đã lầm chưa? [3]

Hạnh phúc theo Đạo Phật rất đơn giản, bất cứ người nàocũng đạt được hạnh phúc đó, miễn sao đi đúng con đường đức Thế Tôn đã vạch ra.Trong kinh Đức Thế Tôn dạy về sự chấm dứt khổ đau như sau: “Này các Tỳ kheo, trong tất cảpháp, dù là pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải thoát ly tham (viràga,) là cao cảnhất. Ấy nghĩa là giải thoát khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham, nhổ tận gốc sự chấpthủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát ái, giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn.[4]

Nếu ta theo con đường Đức Phật đã dạy thực hành mộtcách kiên tâm trì chí, nếu ta tinh tấn đào luyện và thanh lọc bản thân, nếu tađạt đến mức phát triển tâm linh cần thiết, một ngày kia ta có thể thực chứngNiết-bàn ngay trong ta, không cần phải nhọc trí vì những danh từ lớn lối bíhiểm. Cho nên hạnh phúc trong Phật giáo cũng vậy, người nào thật sự tu tập đoạntrừ tham ái, chấp thủ chính người ấy mới cảm nhận được hạnh phúc.

Hạnh phúc trong Phật giáo là sự từ bỏ“tham ái, chấptrước”có nghĩa là khôngvướng bận bất kỳ mọi hoàn cảnh nào, ở trong khổ đau vẫn thấy an vui, hạnh phúc,ở trong đời ngũ trược đầy dẫy sự đau khổ và bất công, chúng ta cũng có thể tựtại, an vui, cho dù chung quanh của ta toàn là ngũ dục, lạc thú. Chúng ta vẫnkhông vướng mắc đến nó cho nên thật là chí lý khi nói:

“Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau
Giải thoát là ung dung trong ràng buộc”

Chân lý hạnh phúc không chờ đợi ở kiếp sau, và cũngkhông cần tìm kiếm một nơi nào khác, chân lý có thể hiện hữu ngay bây giờ và ởđây. Trong tất cả mỗi người ai cũng có một nguồn hạnh phúc chân thật, nhưng conngười không biết nhìn nhận hạnh phúc này, mà đi tìm cầu cái hạnh phúc giả tạmkia.

Chuông lòng thánh thoát từ tâm
Pháp âm thơm ngát, khói trầm quyện bay
Lòng an, tâm tịnh mỗi ngày
Dứt phiền não đoạn, tỏ bày tánh chơn ... (Hoa Mai)

Thích Trí Giải

Chú thích:

[1] Lâmtế lục thị chúng, ĐĐ ThiênÂn, Triết học Zen, tr.103

[2] PhápBảo Đàn Kinh(Đoàn trung Còndịch), Sám Hối Phẩm, tr. 61

[3] 云 何 自 疑 汝 之 真 性, 性 汝 不 真, 取 我 求 實. Vân hà tự nghi nhữ chi Chân Tính, Tính nhữ bất chân,thủ Ngã cầu thực. – Thủ LăngNghiêm kinh(V.N. P.T. hội xuất bản), q. II, tr. 16-17.- ThủLăng Nghiêm, -Linh Sơn, Phật Học, tr. 113-114

[4] Aṅguttara-Nikāya, II.p.34

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2015(Xem: 14465)
(Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn Độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Những câu hỏi thì đa trí, sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ; nhiều khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho các nhà học giả, người nghiên cứu, kẻ đa nghi cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.) - Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng giáo hội của Đức Tôn Sư trong sạch, quý báu, cao thượng lắm phải chăng? - Tâu, vâng. - Trong giáo hội ấy, tất cả Tăng chúng và Ni chúng đều là người đã chứng đắc các quả vị thanh tịnh cả chăng?
06/05/2015(Xem: 8857)
Đời sống là một chuỗi những câu chuyện xen lẫn nhau, không phải là những khái niệm. Khái niệm thì khác xa với sự thật. Do vậy, một câu chuyện được kết cấu với tình tiết phong phú và có ý nghĩa thì gần gũi với đời sống thực tế. Đó là lý do tại sao chúng ta dễ dàng liên hệ với đời sống qua các câu chuyện hơn là những lý thuyết trừu tượng. Và đó cũng là lý do mà thầy Ajahn Brahm - tu sĩ người Anh, Tu viện trưởng rừng thiền Bodhinyana và là Giám đốc hội Phật học Tây Úc - chọn cách giảng dạy, trình bày pháp thông qua những câu chuyện.
01/05/2015(Xem: 9404)
HỎI: Tôi vì học tập và công việc nên sống xa nhà, hiện đang ở trọ một mình. Gia đình tôi thờ Phật, trước đây mỗi ngày tôi đều tụng kinh, lạy Phật. Hiện nơi tôi ở trọ cách chùa rất xa, việc đến chùa lạy Phật hàng ngày rất khó khăn. Gần đây, tôi được người quen tặng một bức tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi vui lắm và mong được thờ Ngài trong phòng để tiện tụng niệm, lễ bái. Nhưng tôi rất băn khoăn vì phòng trọ rất nhỏ hẹp, bạn bè thường hay tới chơi, đôi khi có cả bạn trai của tôi đến nữa. Xin hỏi, tôi thờ Bồ-tát có trong phòng trọ có được không? Nếu được thì quy cách như thế nào để không phạm lỗi bất kính?
01/05/2015(Xem: 31458)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
30/04/2015(Xem: 13094)
Quán Âm Tình Vô Lượng Mẹ về với những yêu thương Dịu dàng trên sóng trùng dương Mẹ về Mắt buồn xót cõi đời mê Dáng Từ phủ khắp sơn khê .. Mẹ ngồi Con tim Mẹ chứa cõi đời Lắng sâu như lượng trùng khơi dạt dào Tình Người vời vợi trăng sao Đường trần bóng Mẹ ngọt ngào chở che..
30/04/2015(Xem: 8733)
Hunzas – Bộ tộc 900 năm trở lại đây không có ai bị ung thư Trên thế giới có nhiều dân tộc kỳ lạ, mà những đặc điểm của họ khiến người ta phải kinh ngạc, bộ tộc mà chúng tôi muốn giới thiệu ở đây là bộ tộc Hunzas, họ là tộc người khỏe mạnh nhất trên toàn thế giới.
27/04/2015(Xem: 12437)
Thư Mời Tham Dự Khóa Tu Mùa Hè tại San Jose, California
27/04/2015(Xem: 7854)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
26/04/2015(Xem: 12671)
Ajahn Chah sinh năm 1918 trong một ngôi làng phía Bắc Thái Lan. Ngài xuất gia từ lúc còn nhỏ và trở thành một vị tỳ khưu năm 20 tuổi. Ngài theo truyền thống hành đầu đà của các sơn tăng trong nhiều năm. Hằng ngày mang bát xin ăn, chuyên tâm hành thiền và đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp. Ajahn Chah hành thiền dưới sự chỉ dẫn của nhiều thiền sư danh tiếng trong đó có ngài Ajahn Mun, một vị thiền sư nổi tiếng và được kính trọng vào thời bấy giờ. Ajahn Chah đã chịu nhiều ảnh hưởng của ngài Ajahn Mun. Ajahn Chah là một thiền sư tuyệt diệu, Ngài đã dạy đạo một cách trực tiếp, rõ ràng, và tận tụy chia sẻ sự chứng nghiệm giáo pháp của mình cho những người đến sau. Lời dạy của Ngài thật đơn giản: "Hãy để sự vật tự nhiên, đừng dính mắc. Hãy xả bỏ tất cả. Sự vật thế nào, hãy để y như vậy". Ajahn Chah viên tịch vào ngày 16 tháng Giêng, 1992 ở Wat Pah Pong, tỉnh Ubon Ratchathani.
26/04/2015(Xem: 10596)
Nằm trên thung lũng xanh Larung cao 4.000m, cách thị trấn Sertar, Garze, Tây Tạng khoảng 15 km, nhìn từ xa Học viện Phật giáo Larung Gar như một ngôi làng nhỏ xinh chứa đựng vô vàn điều thiêng liêng và dung dị nhất của đạo Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]