Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành xứ của người xuất gia

07/01/201205:34(Xem: 6843)
Hành xứ của người xuất gia
ngoi thien


HÀNH XỨ CỦA NGƯỜI XUẤT GIA

E. Conze - dịch Việt: Hạnh Viên




Theo giới luật truyền thông của đạo Phật thì hàng năm, bắt đầu từ 15 tháng Tư trở đi cho đến 15 tháng Bảy âm lịch, toàn thể chư Tăng Nitu học theo truyền thống thừa Bắc tông đều thực hành quy chế cấm túc, an cư tại các trú xứ như chùa chiền, tịnh xá, tịnh thất. Cấm túc an cư có nghĩa là giới hạn việc cư trú và sinh hoạt trong phạm vi một trú xứ,hạn chế tối đa việc đi lại và sinh hoạt ở bên ngoài, dành trọn thời gian ba táng an cư cho việc nghiêm trì giới – pháp của Đức Phật. Đây là thời điểm thuận lợi nhất cho người xuất gia tập trung tu tập lời Phật dạy để tăng tiến cho đạo nghiệp giải thoát. Đây cũng là khoảng thời gian tốt đẹp nhất cho người Phật tử tại gia thể hiện tấm lòng thể hiện và tôn kính Tam bảo bằng cách học hỏi và độ trì cho chư Tăng Ni tập trung tu học tại các trú xứ. Chính vì thế mà sinh hoạt an cư hàng năm của chư Tăng Ni được xem là truyền thống tốt đẹp, luôn luôn được tôn trọng và tuân thủ bởi mọi người con Phật, cả xuất gia cũng như tại gia.Trong giáo lý đạo Phật, cấm túc an cư được xem là “pháp nên hành trì” hay còn gọi là “hành xứ của người xuất gia”.

An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo pháp và giới luật do Đức Phật tuyên thuyết. Vì thế, an cư củng có nghĩa là sống an ổn và an lạc trong giáo pháp của Phật. Pháp của Phật được xem là trú xứ an lạc dành cho những ai sống ở trong đó. Nó cũng được xem là hành xứ an toàn tuyệt đối cho những ai đi lại trong đó. Vậy nên, càng chuyên tâm sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ của Phật pháp thì con người càng hưởng được tự do và an lạc lớn. Chư Tăng –Ni tuân theo giới luật của Phật, thực hành quy chế cấm túc an cư, tức dành trọn thời gian ba thánhđể chuyên tâm tu tập và đi lại trong lời dạy của Đức Phật và do dó cũng có nghĩa là họ được sống an ổn an lạc trong trú xứ và hành xứ Phật pháp. Nhìn chung, an cư là cơ hội thuận lợi cho người xuất gia tiến tutrên con đường Giới – Định –Tuệ hướng đến mục tiêu giải thoát giác ngộ.

Thế nào là đi lại trong trú xứ Phật pháp hay còn gọi là hành xứ của người xuất gia? Nói đến việc đi lại trong trú xứ Phật pháp tức là nói đến sự kiện giáo pháp của Đức Phật được vận dụng tu tập, trở thành chỗ nương tựa tu học cho vị hành giả. Khi một vị hành giả ứng dụng giáo pháp của đức Phật vào việc tu tập, chẳng hạn, việc chuyên tâm nghiêm trì giới luật hay thực hành thiền định … thì bấy giờ vị ấy được xem là đang sống và đi lại trong trú xứ Phật pháp. Hành xử của người xuất gia có nghĩa là nơi chốn mà người xuất gia thường xuyên lui tới để được học hỏi và thăng tiến về mặt giới đức, tâm linh và trí tuệ hay phạm vi sinhhoạt thích đáng và hữu ích cho người xuất gia, ngụ ý sự chuyên tâm tu học của Đức Phật. Người xuất gia quyết tâm đi theo con đường của Phật, sống và hành xử theo giáo pháp và giới luật do Đức Phật giảng dạy, không vượt ra ngoài phạm vi giáo pháp và giới luật của Phật, do đó được gọi là người đi lại trong trú xứ Phật pháp. Nói cách khác, người xuất gia chỉ nên chuyên tâm đi lại và hành hoạt trong phạm vi giáo pháp Giới-Định-Tuệ của Đức Phật.

Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, mỗi người chúng ta đếu có nơi chốn nào đó, hữu hình hoặc vô hình, mà chúng ta thường hay lui tới hoặcđi lại và hành xử gọi là hành xứ. Theo lời dạy của Đức Phật thì hành xứ có nghĩa là chỗ đi lại hay phạm vi hoạt động của con người được thể hiện cụ thể qua các hoạt động củ thân, miệng, ý theo đúng tinh thần giáo pháp và giới luật của Phật. Điều đó hàm ý rằng vị ấy phải tập uốn nắn và dẫn dắt các hành vi thuộc thân thể (thân hành), các hành vi thuộc lời nói (khẩu hành), các hành vi thuộc tâm thức (ý hành) của mình sao cho thật chơn chánh, đúng đắn, không sai phạm, không có tỳ vếtlỗi lầm. Về điều này, trong bài kinh Mã ấp có nội dung nhấn mạnh đến các pháp tác thành sa-môn thuộc tuyển tập Trung Bộ, Đức Phật đã cho lờikhuyên như sau : “Thân hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu. Khẩu hành của vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu. Khẩu hành củavị ấy phải được thanh tịnh, minhchánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu”. Nói một cách cụ thể hơn thì người xuất gia phải tập kiểm soát và uốn nắn thân, khẩu, ý của mình như thế nào để thân không rơi vào hành vi sai trái như sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục; miệng không rơi vào các hành vi sai trái như nói láo, nói hai lưỡi, nóiđộc ác, nói phù phiếm; ý không rơi vào các hành vi sai trái như tham dục, sân hận, tà kiến. khi người xuất gia nổ lực uốn nắn và dẫn dắt thân, khẩu, ý vận hành theo chiều hướng tốt đẹp như vậy thì được gọi làngười đi lại trong trú xứ Phật pháp hay còn gọi là “ hành xứ của ngườixuất gia ”.

Cứ theo kinh điển được truyền lại thì người xuất gia có nhiều hành xứan toàn để có thể tự do đi lại ở trong đó mà không sợ bị ai quấy rầy. Chúng ta có thể nói rằng mỗ lời dạy của Đức Phật chính là một hành xứ an ổn tuyệt đối mà người con Phật có thể ung dung bước đi trên đó một cách hết sức thanh thản và bình an. Bên cạnh việc uốn nắn thân, khẩu, ýtrở nên đoan chánh ngay thẳng, không phạm tỳ vết lỗi lầm, được xem nhưlà hành xứ của người xuất gia, một vài phương pháp tu tập căn bản khácđược tiếp tục nêu ra trong bản kinh cho thấy người xuất gia được gợi mở nhiều lối đi hết sức yên ổn và được hướng dẫn chu đáo trong phương pháp tu tập để được sống an lạc và đi lại an toàn trong trú xứ rộng lớnbao la của Phật pháp. Chẳng hạn, chúng ta có những lời khuyên tiếp theo của Đức Phật trong bài kinh Mả ấp, Trung Bộ:

-“ Sanh mạng vị ấy phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết che giấu ”.

-“ Vị ấy phải hộ trì căn bản: Khi thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không năm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì conmắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi , các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng …mũi ngửi hương …lưỡi nếm vị …thân cảm xúc …ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân vì căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn ”.

- “ Vị ấy phải biết tiết độ trong ăn uống. Vị ấy phải chơn chánh giác sát, thọ dụng thức ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị tổn hại, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng : “Như vậy ta sẽ diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn ”

- “ Vị ấy phải chú tâm cảnh giác. Ban ngày, khi đi kinh hành haytrong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một, khi đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh giữa, vị ấy nằm theo dáng nằm sư tử, nghiêng bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánhniệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến lúc thức dậy lại. Ban đêm canh cuối, khi thức dậy đi kinh hành hay trong lúc ngồi, vị ấy tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại”.

- “ Vị ấy phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác”.

Trên đây là một vài phương pháp hành trì căn bản trong rất nhiều các pháp môn tu tập dành cho người xuất gia được nói đến đầy đủ trong kinh điển Phật giáo. Nhìn chung, người xuất gia được trang bị đầy đủ trú xứ và hành xứ tốt đẹp để có thể sống an lạc và đi lại an toàn trong suốt cuộc đời tu học của mình. Đó là toàn bộ giáo pháp và giới luật củaĐức Phật được lưu giữ trong tam tạng kinh điển. Người xuất gia chuyên tâm sống và đi lại trong trú xứ và hành xứ của Phật pháp, không vượt rangoài trú xứ và hành xứ ấy, thì nhất định sẽ tăng trưởng đạo nghiệp giải thoát và sẽ tránh được các phiền toái hay khổ não phát sinh.

Chư Tăng Ni sắp vào mùa an cư thúc liễm thân tâm theo tinh thần giáo pháp và giới luật của Đức Phật, điều đó cũng có nghĩa là chư Tăng Ni quyết tâm dành nhiều thời gian để sống và đi lại trong trú xứ và hànhxứ Phật pháp. Trong Kinh Tương Ưng có một câu chuyện ngụ ngôn thật ý nhị, nói về con chim cút khéo biết cách chống đỡ sức tấn công mạnh mẽ đáng sợ của con chim ưng, do Đức Phật kể cho các Tỳ- kheo nhằm lưu ý khuyên nhắc nhở người xuất gia nên chú tâm đi lại trong trú xứ Phật pháp để được bảo đảm an toàn mà thực hiện mục tiêu tu học của mình, tránh được các hậu quả phiền toái và khổ não phát sinh do tình trạng đinhầm đường lạc hướng. Nhân mùa an cư của chư Tăng Ni, chúng ta suy ngẫm lại câu chuyện ngụ ngôn ý nhị này 1:

“ Thuở xưa, này các Tỳ – kheo, một con chim ưng cái thình lình vồ xuống và chụp lấy một con chim cút. Rồi này các Tỳ – kheo, con chim cút bị con chim ưng cái bắt

- Như thế này, thật bất hạnh cho tôi ! thật thiếu may mắn cho tôi ! vì rằng tôi đã đi không phải chỗ hành xử của mình, đi vào cảnh giới của người khác. Nếu tôi đi trong chỗ hành xứ của tôi, trong cảnh giới của cha mẹ tôi, thời con chim ưng này không thể hơn tôi, nếu phải đánh nhau.

- Này chim cút, thế nào là chỗ hành xứ của ngươi ? Thế nào là cảnh giới của cha mẹ ngươi ?

- Là vạt đất được lưỡi cáy xới lên.

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim ưng cái không có siết mạnh sức mạnh của mình, không có bóp chặt sức mạnh của mình, thả con chim cút rồi nói :

- “ Hãy đi này chim cút. Sau khi đi tại chỗ ấy, ta sẽ không tha cho ngươi ”.

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim cút đi đến vạt đất được lưỡi cày xới lên, leo lên một hòn đất lớn, đứng trên ấy và nói với con chim ưng:

- “ Hãy đến ta, này chim ưng ! Hãy đến ta, này chim ưng ! ”

Rồi này các Tỳ – kheo, con chim ưng cái siết mạnh sức mạnh của mình, bóp chặt sức mạnh của mình, xếp cả hai cánh, thình lình vồ lấy con chim cút. Này các Tỳ-kheo kho con chim cút biết được “con chim ưng này đang vồ mạnh xuống ta”, liền nấp sau hòn đá ấy. Này các Tỳ-kheo, ởđây con chim ưng ấy bị bể ngực.

Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, đối với ai đi tới chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người khác. Do vậy, này các Tỳ-kheo, chớ có đi đến chỗ khôngphảihành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Này các Tỳ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Thời Ác Ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng.

Này các Tỳ-kheo, chỗ nào không phải hành xứ của Tỳ-kheo ? chỗ nào là cảnh giới của người khác ? chính là năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm “

Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các tiếng do tai nhận thức …có các tiếng do mũi nhận thức… có các vị do lưỡi nhận thức có các xúc do thân nhận thức khả lạc,khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỳ-kheo, đây là chỗ không phải hành xứ của Tỳ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác.

Này các Tỳ-kheo, hãy đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. Này các Tỳ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của mình, đến cảnhgiới của cha mẹ mình, thời Ác ma không nắm được cơ hội, không nắm đượcđối tượng.

Và này các Tỳ-kheo, chỗ nào là hành xứ của mình? chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời ; sống quán thọ trên các thọ …sống quán tâm trên tâm …sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phụctham ưu ở đời. Này các Tỳ-kheo, đây là chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình”.

Chú thích :
1 : Kinh Con chim ưng, Tương Ưng Bộ

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2022(Xem: 2168)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & các làng ven quốc lộ từ Bodhgaya đi Varanasi, tiểu bang Bihar India .
10/12/2022(Xem: 4206)
Kính chia sẻ cùng chư Tôn Đức, chư pháp lữ, và quí thiện hữu một số hình ảnh trong mùa Tipitaka (Đại Tạng Kinh PaLi) khai hội tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là lần thứ 17 trùng tụng Tipitaka theo thông lệ hàng năm. Lễ hội quan trọng năm 2022 này do Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức nên tất cả mọi trần thiết, trang hoàng đều do Ban tổ chức Hội trùng tụng Kinh tạng Pali VN thực hiện, nổi bật nhất là cổng chào với hình ảnh hoa tươi rực rỡ “Lưỡng Long chầu Pháp Luân” rất đẹp mắt, khiến ai ai cũng trầm trồ ngợi khen và tán dương công đức. Lễ hội trùng tụng Tipitaka năm nay có các nước Phật Giáo tham gia trùng tụng Đại Tạng như: Nepal, Sri-Lanka, Lao, Campuchia, ThaiLand, Myanmar, Việt Nam, Bangladesh, India, International...Chương trình được khai mạc trang trọng vào ngày 2 tháng 12 cho đến ngày 12/12/2022 là bế mạc, với gần 5000 người tham dự . Nguyện cầu tiếng kinh này vang vọng đến ba ngàn thế giới khiến chúng sanh vạn loài thảy đều nghe ba nghiệp từ đó được thanh tịnh. Và xin nguyện
03/12/2022(Xem: 1376)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 1699)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 4113)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 2749)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 1571)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 2984)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 3560)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 2597)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567