Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển Tập Thư Thầy

25/12/201113:21(Xem: 20145)
Tuyển Tập Thư Thầy

tuyen tap la thu thay-ht vien minh
TUYỂN TẬP THƯ THẦY
Tác giả: Viên Minh

Lời Nói Đầu

Năm 1973 tôi với một vài sư đệ từ Phật Học Viện Phật Bảo, Gia Định, Sài-gòn (nay là Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh) cùng nhau đi tìm một nơi núi rừng thanh vắng tại Lăng Cô, Thừa Thiên – Huế, lập một am tranh để tĩnh tu thiền quán, đó là chùa Huyền Không của một thời dĩ vãng.

Ở đây, ngoài những giờ lao tác để sống tự túc, chúng tôi nghiền ngẫm kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy, Phật giáo Phát Triển, tư tưởng một số tôn giáo khác và ít nhiều triết thuyết Đông Tây kim cổ mà chúng tôi thích nhất là Dịch lý, Lão Tử Đạo Đức Kinh và Phân Tâm Học của phương Tây hiện đại. Kiến thức từ học đường không đủ làm hành trang cho một đời sống tâm linh phong phú nên chúng tôi phải tự mày mò nghiên cứu học hỏi thêm từ kinh sách và từ chính cuộc sống đầy thăng trầm, đa diện này.

Mỗi tối, sau giờ tụng niệm, chúng tôi ngồi lại ngay trước tượng Phật thân thương giản dị, dưới mái am tranh đơn sơ chất phác, cùng nhau uống trà, cùng nhau đàm đạo. Chúng tôi trao đổi nhau về pháp học, pháp hành và cả những kinh nghiệm sống thực của mình, có đôi lúc cũng tranh cãi hăng say trong tinh thần xây dựng để hiểu nhau sâu sắc hơn và thiết thực hơn. Nhờ vậy mà chúng tôi đã học hỏi được nhau rất nhiều và tình huynh đệ ngày mỗi đậm đà, thắm thiết.

Thỉnh thoảng những người Phật tử tại gia cũng đến thăm và tham gia những thời đàm đạo. Chủ yếu là chúng tôi thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, trao cho nhau những vốn liếng sống thực từ trải nghiệm tâm linh hơn là rao kinh giảng pháp.

Nhờ bức tranh sơn thủy hữu tình ở Lăng Cô, nhờ ngọn núi Hải Vân biển trời lồng lộng, nhờ mối đạo tình đầm ấm giữa huynh đệ tứ chúng mà chỉ mấy năm thôi một ngôi chùa Huyền Không hoang sơ mộc mạc đã in đậm dấu ấn sâu xa trong lòng những người thân thương hâm mộ.

Nhưng rồi chiến tranh đã nổ ra cực kỳ ác liệt, Huyền Không ở ngay giữa những lằn tên mũi đạn, đứng trong am có thể nhìn thấy hai bên đánh xáp lá cà ngay trên sườn núi đá bên chùa, đại bác pháo kích nhau nổ rền trời và những mãnh đạn đã vô tình xé nát những trang kinh trong Phật điện. Chúng tôi đã từng chứng kiến dòng thác những người chạy loạn từ Quảng Trị, Thừa Thiên ào ạt tản cư vào Quảng Nam Đà Nẵng. Đó là những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh phân đôi đất nước.

Đến năm 1978, vì đèo Hải Vân là vị trí chiến lược trước sự đe dọa đổ quân của Trung Quốc, nên chùa Huyền Không đã phải ra đi (nay là Huyền Không trung ở thôn Nham Biều và Huyền Không Thượng ở núi Triều Sơn Phương, Đồng Chằm, Hương Hồ, Thừa Thiên – Huế). Từ đó chúng tôi chia tay mỗi người một nẽo, và cũng từ đó những lá thư thân thương đã trở thành nhịp cầu nối lại đạo tình Huyền Không muôn thuở.

Nhờ các đồng đạo tin tưởng, nên mỗi lần có gì khó khăn bức xúc họ đều biên thư về tâm sự và xin một vài lời khuyên nhủ, sách tấn. Nói là khuyên nhủ, thực ra, tôi chỉ muốn chia sẻ bài học khắc nghiệt từ cuộc đời mà những người đồng đạo thân thương đang giáp mặt. Khi lắng nghe họ bộc bạch tâm sự, khi cảm nhận những nỗi niềm băn khoăn chua xót với họ, thực ra tôi đã học được từ họ rất nhiều, nên chúng tôi chỉ cần chia sẻ, chỉ cần cảm thông với nhau để có đủ can đảm đối diện với sự thật hơn là lẩn trốn trong những lời an ủi, khuyên răn cao xa minh triết. Những lá thư mà chúng tôi gởi cho nhau chỉ mong làm nhẹ đi những bức bối lo âu trong khi đang phải gánh chịu những hiểm nguy, phiền lụy giữa cuộc đời.

Điều quan trọng không phải là chúng ta có giúp nhau thoát được những cảnh nguy khốn hiểm nghèo hay không mà là chúng ta đã cùng nhau học được điều gì trong đó. Nếu chúng ta xem phiền não khổ đau là bài học giác ngộ thì mọi phiền não khổ đau sẽ trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu và quả thật là vô cùng kỳ diệu, nhiệm mầu. Sống nhẹ nhàng thanh thoát giữa những khổ đau và ung dung tự tại trong những buộc ràng chính là bí quyết của một người sống đạo.

Trong lần xuất bản trước, vì quá bận không viết lời nói đầu được nên tôi đã nhờ người làm thủ tục xin phép viết giúp lời giới thiệu, ông ta viết mà lại đề tên tôi nên không được lịch sự với quí bạn đọc cho lắm, chúng tôi xin chân thành cáo lỗi.

Ban Biên Tập
Thiền Viện Bửu Long
PL 2550 - TL 2006

[*] Bức thư thứ nhất trong "Tuyển Tập Thư Thầy".


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2025(Xem: 35)
Hơn một thập niên sống và học đạo ở Na Lan Đà (Ấn Độ), pháp sư Nghĩa Tịnh đã ghi chép nhiều nhận xét về luật lệ cho tăng đoàn Phật giáo vào TK 7. Đây cũng là một mục đích chính của ngài sau 25 ở nước ngoài và hơn một thập niên du học ở Na Lan Đa (Ấn Độ). Phần này chú trọng vào điều 33 với tựa đề là “Tôn kính quai thức” 尊敬乖式 (tạm dịch/NCT các tục lệ/tôn kính ngược ngạo). Tuy điều 33 chỉ có 161 chữ, nhưng gồm nhiều khái niệm Phật giáo và dữ kiện rất đáng chú ý. Các ghi chép trong đó cho thấy hai bức tranh toàn cảnh của người thường (phàm/tục) phải trải qua giai đoạn xuất gia, sống một đời khất sĩ theo gương hạnh đầu đà để cuối cùng tìm đến niết bàn (vô sinh). Tương phản với người phàm sống trong tham vọng và xa xỉ, giả dối để mưu sinh. Ngoài ra, ảnh hưởng của Phạn ngữ không nhỏ trong văn hoá Trung Hoa, phản ánh qua các cách dịch nghĩa và kí âm còn tồn tại đến ngày nay; một số đã trở thành vốn từ căn bản của các ngôn ngữ bản địa mà ít người biết là có gốc 'ngoại lai'. Một số Hán và Phạ
10/02/2025(Xem: 404)
Khi tiếng pháo đón chào năm mới 2025 chấm dứt, khi người Hòa Lan trở về với cuộc sống bình thường mỗi ngày thì đó lại là lúc người Việt Nam nơi đây chuẩn bị đón chào năm mới. Chúng ta đón Tết Nguyên Ɖán trong không khí gia đình, chúng ta không hưởng được không khí Tết ngoài đường phố, trong các cửa hàng như ở quê nhà.
10/02/2025(Xem: 345)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản. Lời dạy đó là từ một bài thơ của Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) khi ngài dạy ý chỉ Thiền tông cho vua Trần Nhân Tông. Lời dạy đó cũng là đúc kết từ nhiều Kinh khác nhau do Đức Phật truyền dạy.
10/02/2025(Xem: 676)
Trong tạng kinh Nikàya (Pali), cụ thể là Kinh Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya, Tương Ưng Nhân Duyên, những gì Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng ngộ, thấy biết như thật tương ưng với những gì chư Phật quá khứ đã chứng ngộ và thấy biết như vậy. Thế Tôn gọi đó là TÙY TRÍ (Tùy trí chư Phật quá khứ: thấy biết giống như chư Phật quá khứ đã thấy, đã chứng ngộ). Đấng Thiện Thệ cho rằng những ai Tùy Trí như vậy sẽ có Pháp Trí (tức là Pháp Trí như vậy do Tùy Trí Chư Như Lai mà có, nên tràn đầy ánh quang minh hay Pháp Quang).
06/02/2025(Xem: 381)
XUÂN VÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỒ TÁT ĐI Pháp thoại Hòa thượng Thích Thái Hòa giảng cho Phật tử ngày mùng 2 tết Giáp Thìn, tại Tịnh Nhân Thiền đường, Tự viện Phước Duyên - Huế Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật.
05/02/2025(Xem: 337)
Trời xuân ấm vạn nẻo đường Đất xuân ấm giữa vô thường thế gian; Non xuân đứng giữa núi ngàn, Nước xuân chảy giữa muôn vàn điệu ru;
05/02/2025(Xem: 235)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn, hoặc ngược lại thì thực tế đôi khi cũng có thể khơi động và làm sống lại các ước mơ của mình trong quá khứ. Câu chuyện mà tôi sắp thuật lại dưới đây nêu lên các ước mơ của một người mẹ hiện lên với mình như một sự thực, và các ước mơ của một người con mãi mãi vẫn là ước mơ.
05/02/2025(Xem: 244)
NẾN VU LAN THẮP SÁNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG Trong truyền thống Phật giáo, lễ Vu lan là ngọn nến hiếu hạnh thắp sáng giữa đời thường để cho ai có mắt thì được thấy, có trí thì được sáng tỏ, có tâm thì cảm và có tình, thì tình thêm sáng đẹp, rộng và sâu.
05/02/2025(Xem: 626)
CÁC PHÂN KHOA PHẬT GIÁO Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu.
04/02/2025(Xem: 271)
Có một bài thơ khó hiểu trong Thiền Tông. Bài thơ có tên là Ngũ Vị, có khi gọi là Động Sơn Ngũ Vị, và có khi gọi là Ngũ Vị Quân Thần. Bài thơ khó hiểu phần vì dùng nhiều chữ xưa cổ, nhiều hình ảnh thi vị, và vì chỉ cho một số chặng đường tu học trong Thiền Tông. Bài này sẽ tham khảo nhiều giải thích để làm sáng tỏ bài thơ này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]