Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Aputtaka-Sutta: Sự Giàu có của một người Keo kiệt

25/11/201102:46(Xem: 6879)
Aputtaka-Sutta: Sự Giàu có của một người Keo kiệt
APUTTAKA-SUTTA
Sự Giàu có của một người Keo kiệt
Hoang Phong

Cómột lần khi Đấng Thế Tôn ngụ tại thành Xá-vệ (Sâvatthi) thì vào một buổi chiều,đức vua Pasenadi của xứ Kiêu-tát-la (Kosala) thân hành đến viếng thăm Ngài. VuaPasedani tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôncất lời hỏi vua Pasedani như sau:

-Này đại vương, ngài mới đến đấy à. Thế lúctrưa này ngài ở đâu?

VuaPasenadi đáp lại như sau:

- BạchThế Tôn, tại thành Xá-vệ này có một ngườithật giàu có vừa qua đời. Hắn chết mà lại không có con [thừa kế]. Sau khi đem hếtcủa cải của hắn xung vào ngân khố hoàng gia thì tôi đến đây: [của cải của hắn]gồm tám triệu đồng tiền vàng, và số tiền bằng bạc thì nào có đếm xiết được. Thếnhưng, Bạch Thế Tôn, lúc còn sống thì hằng ngày bữa ăn của người giàu có ấy chỉgồm có một cái bánh làm bằng đậu khô để ăn kèm với cháo. Quần áo thì vỏn vẹn chỉcó một tấm vải dệt bằng chỉ gai đủ quấn được hơn nửa thân người. Phương tiện dichuyển của hắn là một chiếc xe bò cũ kỹ, nóc lợp bằng rơm.

Đức Phật bèn bảo rằng:

- Đúng đấy, này đại vương, cũng có thể xảy ra như thế được. Một người keokiệt vơ vét được một gia tài kếch xù, không dám tiêu xài để mang lại niềm hânhoan và thích thú cho riêng mình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hânhoan và thích thú cho cha mẹ. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan vàthích thú cho gia đình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan vàthích thú cho tôi tớ trong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắnkhông dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn hữu và nhữngngười cộng sự. Hắn không dành riêng một phần của cải để cúng dường người tuhành và các vị tu sĩ để mang lại công đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiệnvà hướng mình [tái sinh] vào cõi thiên nhân.

"Củacải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽbị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn, bị cuốntrôi vì lũ lụt, hoặc rơi vào tay những người thừa kế chẳng biết yêu quý mình.Này đại vương, nếu không biết sử dụng của cải một cách thích đáng để mang lại hạnhphúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

"Nàyđại vương, đấy cũng chẳng khác gì một cái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lànhvà trong vắt, thế nhưng lại ở vào một chốn hoang vu, không có ai đến được để uống,hoặc tắm mát, hoặc dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước khôngđược sử dụng để mang lại hạnh phúc thì cũng sẽ bị thất thoát đi một cách vô ích.

Cũngthế, này đại vương, một người keo kiệt có một gia tài kếch xù không hề biếttiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho mình. Hắn không biết tiêuxài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ [...]. Như thế, này đạivương, nếu một gia tài kếch xù không được sử dụng thích đáng để mang lại hạnhphúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

"Thếnhưng, này đại vương, nếu đấy là một người có lòng rộng lượng, tích lũy được mộtgia tài kếch xù, biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thúcho mình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho chamẹ. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho vợ con.Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho tôi tớtrong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắn biết đem ra tiêu xài đểmang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn bè và những người cộng sự. Hắn biếtđể riêng ra một ít của cải để cúng dường người tu hành và các tu sĩ để mang lạicông đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiện và hướng mình [tái sinh] vào cõithiên nhân.

Nàyđại vương, đấy là cách biết sử dụng gia tài kếch xù của mình một cách thích đáng,không bị vua chúa tịch thu, không bị trộm cắp vơ vét, không bị thiêu hủy vì hỏahoạn, không bị cuốn trôi vì lũ lụt, không rơi vào tay những kẻ thừa kế không biếtyêu thương mình.

"Nàyđại vương, đấy là cách sử dụng của cải một cách thích đáng, không để bị mất đi màbiết đem ra tiêu xài để mang lại hạnh phúc. Này đại vương, đấy cũng giống như mộtcái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lành và trong vắt, ở vào một nơi thuận tiện,cạnh một ngôi làng hay một thị trấn giúp cho mọi người có thể đến uống, tắmmát, hoặc để dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước được sử dụngthích đáng thì chẳng những sẽ không thất thoát đi mà lại còn mang lại hạnhphúc.

"Cũngthế, này đại vương, một người có tấm lòng rộng lượng, thu góp được một gia tàikếch xù và biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú chomình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ.Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho giađình.[...]. Này đại vương, sử dụng gia tài kếch xù một cách thích đáng không phảilà một sự phí phạm, mà đấy là cách tiêu xài để mang lại hạnh phúc.

Consuối mát nơi chốn hoang vu,
Nàocó ai đến được để uống?
Nướctràn đi, phí phạm và vô ích.
Nàocó khác gì của cải của một người keo kiệt,
Khôngbiết tiêu xài cho mình, cũng chẳng biết hiến dâng.
Ngườicó tấm lòng rộng lượng,
Thugóp được của cải và ý thức được bổn phận mình,
Sẽtiêu dùng để nuôi dưỡng mẹ cha và giúp đỡ bạn bè.
Thanhcao, tấm lòng luôn rộng mở,
Khichết hắn sẽ tìm thấy phúc hạnh nơi cõi thiên nhân.
(Samyutta Nikaya,I, ed. PTS, 1884-1898, 91-92)

Vài lời ghi chú

Aputtaka, tên của bản kinh có nghĩa là "Người không có con"(để thừa kế), không phải là tên củamột nhân vật nào cả. Theo Pya Tan (SamyuttayaNikaya, translated and annotated by Pya Tan, 2006) thì chữ này có ý ám chỉ mộtngười không đáng để cho chúng ta ghi nhớ, tức mang ít nhiều tính cách miệt thị.Thật ra thì có ít nhất hai bản kinh mang tên là Aputtaka-Sutta, cả hai đều cóphần bố cục khá giống nhau, chỉ có phần nội dung nhằm mô tả người keo kiệt thì mớicó sự khác biệt (Smyuttaya NikayaSN,III, 19 và SN, III, 20). Bài kinh chuyển ngữ dưới đây là bài kinhAputtaka-Sutta -1.

Giới luật Phật Giáo cấmngười xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đốivới người thế tục thì Phật giáo không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng "những phương tiện sinh sống đúng"(Bát Chánh Đạo), và luôn nhắc nhở họ: "Phải tiêu xài và giúp đỡ người khác".Thật thế có rất nhiều kinh sách đề cập đến vấn đề này, chẳng hạn như khuyên phảitiêu xài các nguồn lợi nhuận mà mình thu góp được để mang lại hạnh phúc, để nuôinấng mẹ cha, giúp đỡ bạn bè, cấp dưỡng cho người tu hành (Anguttara Nikaya, III, 259); phải kiếm tiền một cách lương thiện, tứckhông gây ra thiệt hại cho các chúng sinh khác (lường gạt, hay chăn nuôi súc vậtđể giết thịt) và môi trường thiên nhiên (chặt cây, phá rừng...), và nhất là phảichia sẻ sự giàu có với những người chung quanh, và phải luôn tự cảnh giác khôngđược để vướng vào các thứ cảm tính kiêu căng (AnguttaraNikaya, I,181), v.v...

Nói chung đối với ngườithế tục Phật giáo không cấm cản việc tìm kiếm những thứ thích thú "giác cảm",dù đấy chỉ là những thứ hạnh phúc hời hợt và tạm bợ, bởi vì Phật Giáo ý thức đượclà không thể nào giúp tất cả mọi người trong chốc lát có thể quán thấy được nguồngốc sâu xa của khổ đau phát sinh từ những thứ hạnh phúc ấy. Dầu sao thì nhữngniềm hạnh phúc tạm bợ đó ít ra cũng tránh cho họ được phần nào những thứ khổ đauthật thô thiển, chẳng hạn như hận thù, hung dữ, ích kỷ, tham lam, keo kiệt, bủnxỉn... Vì thế trong bài kinh trên đây Đức Phật cũng đã khuyên những người có củacải nên đem ra tiêu xài để mang lại "niềmhân hoan và thích thúcho chính mình,cho cha mẹ và những người chung quanh".

Cách nay đã hơn hai ngànnăm trăm năm thế mà Đức Phật đã nêu lên tệ nạn nghèo đói và xem đấy là một sự bấtcông trầm trọng của xã hội:

"Khi sự giàu có không được chia sẻ cho người nghèo, thì tình trạngnghèo đói lại càng gia tăng. Khi tình trạng nghèo đói gia tăng, thì trộm cắpcũng gia tăng. Khi trộm cắp gia tăng, thì con số khí giới (để tự vệ và trừkhử bọn cướp giật) cũng sẽ gia tăng. Khi khí giới gia tăng thì việc sát nhân cũnggia tăng"(Anguttara Nikaya,III, 68).

Ngày nay dân số trên địacầu đã tăng lên bảy tỉ người, tình trạng nghèo đói trở nên trầm trọng hơn baogiờ hết. Ủy Ban Nhân Quyền của cơ quan Liên Hiệp Quốc cho biết là cứ mỗi nămgiây thì lại có một đứa bé chết vì đói. Con số khí giới trên hành tinh này cũngtheo đó mà gia tăng, có khi còn nhiều hơn cả sự cần thiết, để thích nghi với sựnghèo đói đang gia tăng ấy, hầu để bảo vệ miếng ăn cho một số người, trong sốđó biết đâu cũng có cả chúng ta.

Phật giáo luôn luônkhuyến khích các hành động từ thiện cùng việc bố thí (dâna) và xem đấy là nhữngđiều xứng đáng tạo ra nghiệp lành cho kiếp sống hiện tại và cho cả các kiếp sốngtương lai. Không nên "ăn một mình" và "làm ngơ" trước cái đóicủa kẻ khác. Những gì mình được hưởng hôm nay là nhờ vào những gì xứng đáng màmình đã tạo được trong các kiếp trước, thế nhưng nếu chỉ biết sống một cách bầntiện, keo kiệt thì tránh sao khỏi sẽ tái sinh trong một hoàn cảnh đói nghèo. Đấylà những gì sơ đẳng nhất trong giáo lý nhà Phật.

Thế nhưng oái oăm thay,nào có mấy người trong chúng ta lại tự nhận là mình giàu có đâu. Gặp nhau thìthan thở là chứng khoán dạo này tuột nhanh quá, thật là dại vì tiền dư bao nhiềulà dồn cả vào đấy cho mất toi, trong khi đó thì tiền mua nhà trả góp cho ngân hàngcòn hơn chục năm nữa mới hết, tệ hơn nữa là hôm qua đã dốc túi mua mấy chục tấmvé số mà chẳng trúng được đồng nào. Tết nhất đến nơi, còn phải quà cáp biếu xéncho thầy cô của bọn trẻ. Vật giá thì gia tăng, thế nhưng lại phải ăn Tết cho ravẻ với người ta chứ..., toàn là nợ nần và các chuyện phải tiêu xài. Thương thaycho sự túng quẫn của họ.

Thật vậy có mấy ai nhìnthấy cái "giàu có" của mình đâu? Củacải thật ra chỉ là những con số vô nghĩa, sự giàu có đích thật là ở trong đáytim mình. Tết nhất đến nơi, khi ra đường ta trông thấy một đứa bé lang thang, ráchrưới, đen đúa và bẩn thỉu đang đứng nhìn những chiếc quần áo mới treo lủng lẳngtrong các cửa hàng, đôi khi cũng khiến cho ta phải bật khóc. Những giọt nước mắtấy mới đúng thật là sự giàu có, tuy yên lặng thế nhưng rạt rào như đại dương mênhmông.

Ngoài ra còn có một sựgiàu có khác nữa mà tất cả mọi người đều ngang hàng nhau, không thể vin vào đấyđể ganh tị hay so đo với nhau được. Đấy là tất cả mọi người trong chúng ta đềucó hai mươi bốn giờ trong một ngày. Chúng ta sử dụng chúng như thế nào? Phải chăngđể xem phim Hàn quốc bất tận, xem cô này "yêu" cậu kia, cậu kia"thương" cô khác, ghen tuông, khóc lóc, đủ mọi chuyện éo le, gay cấn?Hay là chúng ta thích sang nhà hàng xóm tán gẫu hay đánh bài, hoặc rủ nhau đi quánnhậu, đi uống "cà-phê vườn", "cà-phê đèn mờ" để nghe nhạc"trữ tình" bất tận? Đấy là một sự phung phí lớn lao nhất của kiếp conngười, tương tự như chúng ta có một cái "hồnước mát và tinh khiết",thế nhưng không biết lấy nước ấy để tắm và cũngkhông có ai đến được để uống một ngụm nào, cứ để cho nước tràn đi và thất thoát.

Nếu biết sử dụng nhữnggiây phút quý báu của kiếp người để học hỏi, tự trau dồi hầu giúp mình trở nên nhữngcon người xứng đáng hơn và cao cả hơn, thì những giây phút ấy sẽ trở thành mộtgia tài kếch xù, một nguồn tài nguyên bất tận và vô giá. Đấy cũng là một cách "mang ra tiêu xài của cải của mình mộtcách thích đáng". Nếu quay nhìn lại quãng đời đã trải qua thì mỗi ngườitrong chúng ta cũng nên tự hỏi xem mình đã phí phạm bao nhiêu giây phút quý báuấy của kiếp người.

Tuy nhiên cũng có thể cóngười phản kháng lại và cho rằng việc học hỏi và tu tập vượt quá khả năng của họ.Thật vậy những gì mình muốn thu đạt được từ bên ngoài thì có thể đòi hỏi nhiếucố gắng và kiên trì, thế nhưng những gì phát xuất từ đáy tim mình thì cũng khôngđến đỗi khó khăn gì cho lắm. Chẳng hạn, nếu trông thấy cha mình ngồi trong yênlặng, bâng khuâng nhìn ra đường, thì rót một tách nước trà để mời cha rồi ngồixuống với cha vài phút, nếu trông thấy những nét u uẩn hiện lên trong đôi mắt củamẹ thì cố tìm một vài lời ngọt ngào để gợi chuyện với mẹ, nếu không thì cũng cóthể chạy sang nhà hàng xóm chơi đùa với mấy đứa trẻ con để cho mẹ chúng có thìgiờ dọn dẹp nhà cửa hoặc bắc nồi cơm lên bếp. Những việc nhỏ nhoi như thế nào cókhó khăn gì đâu, dần dần rồi ta sẽ có thể thực hiện được những việc khó khăn hơn,ít ra thì những giây phút đó cũng ích lợi hơn là ngồi xem "Cô gái ĐồLong" tung chưởng hết hiệp này sang hiệp khác, đến khi đứng lên thì uể oải,tâm trí trở nên đờ đẫn và ù lì.

Tóm lại hãy hiến dângnhững gì mình có trong hai tay, trong đáy tim mình và cả những giây phút của kiếpngười này. Chúng ta luôn luôn giàu có hơn là chúng ta tưởng vì thế đôi khi cũngnên nhìn lại xem mình có keo kiệt lắm hay không. Thiển nghĩ bài kinh trên đây dạycho chúng ta hiểu rằng những gì chúng ta ôm lấy khư khư chẳng những không ích lợigì mà chúng sẽ mất đi vào một lúc nào đó.

Để thay cho phần kết luậncũng xin trích thêm một bài kinh khác thật ngắn mang tên là Aditta-Sutta,tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). Aditta có nghĩa là bốc cháy, do đó có thểtạm dịch bài kinh này là bài Kinh về HỏaHoạn. Khi một căn nhà bốc cháy thì những gì cất dấu trong đó sẽ hóa thànhtro bụi, chỉ có những gì đã mang cho người khác thì mới còn lại mà thôi.

Thế nhưng đâu phải chỉcó một gian nhà bốc cháy mà cả thế gian này đang bốc cháy. Già nua đang bốc cháy,cái chết đang bốc cháy. Theo định nghĩa của Phật Giáo thì quá trình của sự giànua bắt đầu từ khoảnh khắc tiếp nối ngay sau khi thụ thai, và cái quá trình đóvận hành không ngưng nghỉ cho đến lúc cái chết xảy ra. Vì thế tất cả chúng sinhtrong thế giới này, không có một ngoại lệ nào cả, đều đang bị ngọn lửa của vôthường thiêu đốt. Một người tu tập khi đã ý thức được ngọn lửa mênh mông đóđang thiêu đốt thân xác mình và cả thế gian này, thì sẽ không còn nghĩ tới việcso kè từng xu mà chỉ biết nhìn lại xem trong hai tay mình còn lại những gì đểhiến dâng cho kẻ khác.

Bối cảnh của bài kinh nàythật thi vị và thiêng liêng. Đức Phật đang ngồi thiền yên lặng giữa đêm khuya nơingôi vườn Kỳ Viên thì có một nữ thiên nhân (devata) hiện ra, ánh hào quang soisáng cả khu vườn. Vị nữ thiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn và đảnh lễ, rồi ngồisang một bên. Đấng Thế Tôn cảm ứng cho vị nữ thiên nhân hát lên bài hát của mộttrận hỏa hoạn để hàng ngàn đệ tử của Ngài và các người thế tục đang mơ màngtrong khu vườn có thể lắng nghe giữa đêm thâu thanh vắng. Sau đây là phần chuyểnngữ toàn bộ của bài kinh trên đây dựa theo bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếngAnh của Thanissaro Bhikkhu (The Access toInsight, June, 2010):

"Tôi từng được nghe như thếnày: Có một lần Đấng Thế Tôn đang ngụ tại tu viện của ngài Cấp Cô Độc(Anathapindika) trong khu vườn Kỳ Viên, gần thành Xá-Vệ (Savatthi). Vào lúc nửađêm, hiện ra một nữ thiên nhân tỏa ánh hào quang chiếu sáng cả khu vườn. Vị nữthiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khingồi sang một bên thì cất tiếng để hát lên bài hát sau đây:

"Khi căn nhà bốc cháy,
Những gì còn sót lại,
Là những vật đã cho.
Kìa của cải giữ lại,
Đang hóa thành bụi tro.
Cả thế gian bốc cháy!
Tuổi già thanh củi mục,
Cái chết ngọn lửa hồng.
Bảo toàn nhanh của cải:
Hiến dâng bằng hai tay.
Vật cho là quả ngọt,
Giữ lại, mối lo buồn:
Nào vua quan dòm ngó,
Nào kẻ trộm rình mò,
Hỏa hoạn, một đống tro.
Kìa thân xác bỏ lại,
Nằm kia cùng của cải.
Hỡi những ai giác ngộ!
Nắm lấy hạnh phúc này,
Bằng hai tay để ngửa.
Hân hoan đôi bàn tay,
Dù chỉ là ít ỏi,
Một chút này hiến dâng.
Con đường nào rộng mở,
Cõi thiên nhân đón chờ".
(Tương Ưng Bộ Kinh, Samyutta Nikaya, I,41)

Dịch thơ rất khó để tôn trọngtừng chữ một, do đó xin chép lại dưới đây bản dịch bằng tiếng Anh củaThanissaro Bhikkhu nhằm giúp các độc giả nào muốn tìm hiểu thêm:

When a houseis on fire
the vessel salvaged
is the one that will be of use,
not the one left there to burn.

So when theworld is on fire
with aging and death,
one should salvage [one's wealth] by giving:
what's given is well salvaged.

What's givenbears fruit as pleasure.
What isn't given does not:
thieves take it away, or kings;
it gets burnt by fire or lost.

Then in theend
one leaves the body
together with one's possessions.
Knowing this, the intelligent man
enjoys possessions and gives.

Havingenjoyed and given
in line with his means,
uncensured he goes
to the heavenly state.


Bures-Sur-Yvette, 21.11.11

Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16042)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3724)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6097)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6297)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3990)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8327)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5604)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15614)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10837)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7928)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]