Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Aputtaka-Sutta: Sự Giàu có của một người Keo kiệt

25/11/201102:46(Xem: 5243)
Aputtaka-Sutta: Sự Giàu có của một người Keo kiệt
APUTTAKA-SUTTA
Sự Giàu có của một người Keo kiệt
Hoang Phong

Cómột lần khi Đấng Thế Tôn ngụ tại thành Xá-vệ (Sâvatthi) thì vào một buổi chiều,đức vua Pasenadi của xứ Kiêu-tát-la (Kosala) thân hành đến viếng thăm Ngài. VuaPasedani tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôncất lời hỏi vua Pasedani như sau:

-Này đại vương, ngài mới đến đấy à. Thế lúctrưa này ngài ở đâu?

VuaPasenadi đáp lại như sau:

- BạchThế Tôn, tại thành Xá-vệ này có một ngườithật giàu có vừa qua đời. Hắn chết mà lại không có con [thừa kế]. Sau khi đem hếtcủa cải của hắn xung vào ngân khố hoàng gia thì tôi đến đây: [của cải của hắn]gồm tám triệu đồng tiền vàng, và số tiền bằng bạc thì nào có đếm xiết được. Thếnhưng, Bạch Thế Tôn, lúc còn sống thì hằng ngày bữa ăn của người giàu có ấy chỉgồm có một cái bánh làm bằng đậu khô để ăn kèm với cháo. Quần áo thì vỏn vẹn chỉcó một tấm vải dệt bằng chỉ gai đủ quấn được hơn nửa thân người. Phương tiện dichuyển của hắn là một chiếc xe bò cũ kỹ, nóc lợp bằng rơm.

Đức Phật bèn bảo rằng:

- Đúng đấy, này đại vương, cũng có thể xảy ra như thế được. Một người keokiệt vơ vét được một gia tài kếch xù, không dám tiêu xài để mang lại niềm hânhoan và thích thú cho riêng mình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hânhoan và thích thú cho cha mẹ. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan vàthích thú cho gia đình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan vàthích thú cho tôi tớ trong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắnkhông dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn hữu và nhữngngười cộng sự. Hắn không dành riêng một phần của cải để cúng dường người tuhành và các vị tu sĩ để mang lại công đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiệnvà hướng mình [tái sinh] vào cõi thiên nhân.

"Củacải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽbị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn, bị cuốntrôi vì lũ lụt, hoặc rơi vào tay những người thừa kế chẳng biết yêu quý mình.Này đại vương, nếu không biết sử dụng của cải một cách thích đáng để mang lại hạnhphúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

"Nàyđại vương, đấy cũng chẳng khác gì một cái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lànhvà trong vắt, thế nhưng lại ở vào một chốn hoang vu, không có ai đến được để uống,hoặc tắm mát, hoặc dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước khôngđược sử dụng để mang lại hạnh phúc thì cũng sẽ bị thất thoát đi một cách vô ích.

Cũngthế, này đại vương, một người keo kiệt có một gia tài kếch xù không hề biếttiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho mình. Hắn không biết tiêuxài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ [...]. Như thế, này đạivương, nếu một gia tài kếch xù không được sử dụng thích đáng để mang lại hạnhphúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

"Thếnhưng, này đại vương, nếu đấy là một người có lòng rộng lượng, tích lũy được mộtgia tài kếch xù, biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thúcho mình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho chamẹ. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho vợ con.Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho tôi tớtrong nhà, cho thợ thuyền và những người hầu cận. Hắn biết đem ra tiêu xài đểmang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn bè và những người cộng sự. Hắn biếtđể riêng ra một ít của cải để cúng dường người tu hành và các tu sĩ để mang lạicông đức hầu đạt được niềm hạnh phúc thánh thiện và hướng mình [tái sinh] vào cõithiên nhân.

Nàyđại vương, đấy là cách biết sử dụng gia tài kếch xù của mình một cách thích đáng,không bị vua chúa tịch thu, không bị trộm cắp vơ vét, không bị thiêu hủy vì hỏahoạn, không bị cuốn trôi vì lũ lụt, không rơi vào tay những kẻ thừa kế không biếtyêu thương mình.

"Nàyđại vương, đấy là cách sử dụng của cải một cách thích đáng, không để bị mất đi màbiết đem ra tiêu xài để mang lại hạnh phúc. Này đại vương, đấy cũng giống như mộtcái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lành và trong vắt, ở vào một nơi thuận tiện,cạnh một ngôi làng hay một thị trấn giúp cho mọi người có thể đến uống, tắmmát, hoặc để dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước được sử dụngthích đáng thì chẳng những sẽ không thất thoát đi mà lại còn mang lại hạnhphúc.

"Cũngthế, này đại vương, một người có tấm lòng rộng lượng, thu góp được một gia tàikếch xù và biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú chomình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ.Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho giađình.[...]. Này đại vương, sử dụng gia tài kếch xù một cách thích đáng không phảilà một sự phí phạm, mà đấy là cách tiêu xài để mang lại hạnh phúc.

Consuối mát nơi chốn hoang vu,
Nàocó ai đến được để uống?
Nướctràn đi, phí phạm và vô ích.
Nàocó khác gì của cải của một người keo kiệt,
Khôngbiết tiêu xài cho mình, cũng chẳng biết hiến dâng.
Ngườicó tấm lòng rộng lượng,
Thugóp được của cải và ý thức được bổn phận mình,
Sẽtiêu dùng để nuôi dưỡng mẹ cha và giúp đỡ bạn bè.
Thanhcao, tấm lòng luôn rộng mở,
Khichết hắn sẽ tìm thấy phúc hạnh nơi cõi thiên nhân.
(Samyutta Nikaya,I, ed. PTS, 1884-1898, 91-92)

Vài lời ghi chú

Aputtaka, tên của bản kinh có nghĩa là "Người không có con"(để thừa kế), không phải là tên củamột nhân vật nào cả. Theo Pya Tan (SamyuttayaNikaya, translated and annotated by Pya Tan, 2006) thì chữ này có ý ám chỉ mộtngười không đáng để cho chúng ta ghi nhớ, tức mang ít nhiều tính cách miệt thị.Thật ra thì có ít nhất hai bản kinh mang tên là Aputtaka-Sutta, cả hai đều cóphần bố cục khá giống nhau, chỉ có phần nội dung nhằm mô tả người keo kiệt thì mớicó sự khác biệt (Smyuttaya NikayaSN,III, 19 và SN, III, 20). Bài kinh chuyển ngữ dưới đây là bài kinhAputtaka-Sutta -1.

Giới luật Phật Giáo cấmngười xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đốivới người thế tục thì Phật giáo không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng "những phương tiện sinh sống đúng"(Bát Chánh Đạo), và luôn nhắc nhở họ: "Phải tiêu xài và giúp đỡ người khác".Thật thế có rất nhiều kinh sách đề cập đến vấn đề này, chẳng hạn như khuyên phảitiêu xài các nguồn lợi nhuận mà mình thu góp được để mang lại hạnh phúc, để nuôinấng mẹ cha, giúp đỡ bạn bè, cấp dưỡng cho người tu hành (Anguttara Nikaya, III, 259); phải kiếm tiền một cách lương thiện, tứckhông gây ra thiệt hại cho các chúng sinh khác (lường gạt, hay chăn nuôi súc vậtđể giết thịt) và môi trường thiên nhiên (chặt cây, phá rừng...), và nhất là phảichia sẻ sự giàu có với những người chung quanh, và phải luôn tự cảnh giác khôngđược để vướng vào các thứ cảm tính kiêu căng (AnguttaraNikaya, I,181), v.v...

Nói chung đối với ngườithế tục Phật giáo không cấm cản việc tìm kiếm những thứ thích thú "giác cảm",dù đấy chỉ là những thứ hạnh phúc hời hợt và tạm bợ, bởi vì Phật Giáo ý thức đượclà không thể nào giúp tất cả mọi người trong chốc lát có thể quán thấy được nguồngốc sâu xa của khổ đau phát sinh từ những thứ hạnh phúc ấy. Dầu sao thì nhữngniềm hạnh phúc tạm bợ đó ít ra cũng tránh cho họ được phần nào những thứ khổ đauthật thô thiển, chẳng hạn như hận thù, hung dữ, ích kỷ, tham lam, keo kiệt, bủnxỉn... Vì thế trong bài kinh trên đây Đức Phật cũng đã khuyên những người có củacải nên đem ra tiêu xài để mang lại "niềmhân hoan và thích thúcho chính mình,cho cha mẹ và những người chung quanh".

Cách nay đã hơn hai ngànnăm trăm năm thế mà Đức Phật đã nêu lên tệ nạn nghèo đói và xem đấy là một sự bấtcông trầm trọng của xã hội:

"Khi sự giàu có không được chia sẻ cho người nghèo, thì tình trạngnghèo đói lại càng gia tăng. Khi tình trạng nghèo đói gia tăng, thì trộm cắpcũng gia tăng. Khi trộm cắp gia tăng, thì con số khí giới (để tự vệ và trừkhử bọn cướp giật) cũng sẽ gia tăng. Khi khí giới gia tăng thì việc sát nhân cũnggia tăng"(Anguttara Nikaya,III, 68).

Ngày nay dân số trên địacầu đã tăng lên bảy tỉ người, tình trạng nghèo đói trở nên trầm trọng hơn baogiờ hết. Ủy Ban Nhân Quyền của cơ quan Liên Hiệp Quốc cho biết là cứ mỗi nămgiây thì lại có một đứa bé chết vì đói. Con số khí giới trên hành tinh này cũngtheo đó mà gia tăng, có khi còn nhiều hơn cả sự cần thiết, để thích nghi với sựnghèo đói đang gia tăng ấy, hầu để bảo vệ miếng ăn cho một số người, trong sốđó biết đâu cũng có cả chúng ta.

Phật giáo luôn luônkhuyến khích các hành động từ thiện cùng việc bố thí (dâna) và xem đấy là nhữngđiều xứng đáng tạo ra nghiệp lành cho kiếp sống hiện tại và cho cả các kiếp sốngtương lai. Không nên "ăn một mình" và "làm ngơ" trước cái đóicủa kẻ khác. Những gì mình được hưởng hôm nay là nhờ vào những gì xứng đáng màmình đã tạo được trong các kiếp trước, thế nhưng nếu chỉ biết sống một cách bầntiện, keo kiệt thì tránh sao khỏi sẽ tái sinh trong một hoàn cảnh đói nghèo. Đấylà những gì sơ đẳng nhất trong giáo lý nhà Phật.

Thế nhưng oái oăm thay,nào có mấy người trong chúng ta lại tự nhận là mình giàu có đâu. Gặp nhau thìthan thở là chứng khoán dạo này tuột nhanh quá, thật là dại vì tiền dư bao nhiềulà dồn cả vào đấy cho mất toi, trong khi đó thì tiền mua nhà trả góp cho ngân hàngcòn hơn chục năm nữa mới hết, tệ hơn nữa là hôm qua đã dốc túi mua mấy chục tấmvé số mà chẳng trúng được đồng nào. Tết nhất đến nơi, còn phải quà cáp biếu xéncho thầy cô của bọn trẻ. Vật giá thì gia tăng, thế nhưng lại phải ăn Tết cho ravẻ với người ta chứ..., toàn là nợ nần và các chuyện phải tiêu xài. Thương thaycho sự túng quẫn của họ.

Thật vậy có mấy ai nhìnthấy cái "giàu có" của mình đâu? Củacải thật ra chỉ là những con số vô nghĩa, sự giàu có đích thật là ở trong đáytim mình. Tết nhất đến nơi, khi ra đường ta trông thấy một đứa bé lang thang, ráchrưới, đen đúa và bẩn thỉu đang đứng nhìn những chiếc quần áo mới treo lủng lẳngtrong các cửa hàng, đôi khi cũng khiến cho ta phải bật khóc. Những giọt nước mắtấy mới đúng thật là sự giàu có, tuy yên lặng thế nhưng rạt rào như đại dương mênhmông.

Ngoài ra còn có một sựgiàu có khác nữa mà tất cả mọi người đều ngang hàng nhau, không thể vin vào đấyđể ganh tị hay so đo với nhau được. Đấy là tất cả mọi người trong chúng ta đềucó hai mươi bốn giờ trong một ngày. Chúng ta sử dụng chúng như thế nào? Phải chăngđể xem phim Hàn quốc bất tận, xem cô này "yêu" cậu kia, cậu kia"thương" cô khác, ghen tuông, khóc lóc, đủ mọi chuyện éo le, gay cấn?Hay là chúng ta thích sang nhà hàng xóm tán gẫu hay đánh bài, hoặc rủ nhau đi quánnhậu, đi uống "cà-phê vườn", "cà-phê đèn mờ" để nghe nhạc"trữ tình" bất tận? Đấy là một sự phung phí lớn lao nhất của kiếp conngười, tương tự như chúng ta có một cái "hồnước mát và tinh khiết",thế nhưng không biết lấy nước ấy để tắm và cũngkhông có ai đến được để uống một ngụm nào, cứ để cho nước tràn đi và thất thoát.

Nếu biết sử dụng nhữnggiây phút quý báu của kiếp người để học hỏi, tự trau dồi hầu giúp mình trở nên nhữngcon người xứng đáng hơn và cao cả hơn, thì những giây phút ấy sẽ trở thành mộtgia tài kếch xù, một nguồn tài nguyên bất tận và vô giá. Đấy cũng là một cách "mang ra tiêu xài của cải của mình mộtcách thích đáng". Nếu quay nhìn lại quãng đời đã trải qua thì mỗi ngườitrong chúng ta cũng nên tự hỏi xem mình đã phí phạm bao nhiêu giây phút quý báuấy của kiếp người.

Tuy nhiên cũng có thể cóngười phản kháng lại và cho rằng việc học hỏi và tu tập vượt quá khả năng của họ.Thật vậy những gì mình muốn thu đạt được từ bên ngoài thì có thể đòi hỏi nhiếucố gắng và kiên trì, thế nhưng những gì phát xuất từ đáy tim mình thì cũng khôngđến đỗi khó khăn gì cho lắm. Chẳng hạn, nếu trông thấy cha mình ngồi trong yênlặng, bâng khuâng nhìn ra đường, thì rót một tách nước trà để mời cha rồi ngồixuống với cha vài phút, nếu trông thấy những nét u uẩn hiện lên trong đôi mắt củamẹ thì cố tìm một vài lời ngọt ngào để gợi chuyện với mẹ, nếu không thì cũng cóthể chạy sang nhà hàng xóm chơi đùa với mấy đứa trẻ con để cho mẹ chúng có thìgiờ dọn dẹp nhà cửa hoặc bắc nồi cơm lên bếp. Những việc nhỏ nhoi như thế nào cókhó khăn gì đâu, dần dần rồi ta sẽ có thể thực hiện được những việc khó khăn hơn,ít ra thì những giây phút đó cũng ích lợi hơn là ngồi xem "Cô gái ĐồLong" tung chưởng hết hiệp này sang hiệp khác, đến khi đứng lên thì uể oải,tâm trí trở nên đờ đẫn và ù lì.

Tóm lại hãy hiến dângnhững gì mình có trong hai tay, trong đáy tim mình và cả những giây phút của kiếpngười này. Chúng ta luôn luôn giàu có hơn là chúng ta tưởng vì thế đôi khi cũngnên nhìn lại xem mình có keo kiệt lắm hay không. Thiển nghĩ bài kinh trên đây dạycho chúng ta hiểu rằng những gì chúng ta ôm lấy khư khư chẳng những không ích lợigì mà chúng sẽ mất đi vào một lúc nào đó.

Để thay cho phần kết luậncũng xin trích thêm một bài kinh khác thật ngắn mang tên là Aditta-Sutta,tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). Aditta có nghĩa là bốc cháy, do đó có thểtạm dịch bài kinh này là bài Kinh về HỏaHoạn. Khi một căn nhà bốc cháy thì những gì cất dấu trong đó sẽ hóa thànhtro bụi, chỉ có những gì đã mang cho người khác thì mới còn lại mà thôi.

Thế nhưng đâu phải chỉcó một gian nhà bốc cháy mà cả thế gian này đang bốc cháy. Già nua đang bốc cháy,cái chết đang bốc cháy. Theo định nghĩa của Phật Giáo thì quá trình của sự giànua bắt đầu từ khoảnh khắc tiếp nối ngay sau khi thụ thai, và cái quá trình đóvận hành không ngưng nghỉ cho đến lúc cái chết xảy ra. Vì thế tất cả chúng sinhtrong thế giới này, không có một ngoại lệ nào cả, đều đang bị ngọn lửa của vôthường thiêu đốt. Một người tu tập khi đã ý thức được ngọn lửa mênh mông đóđang thiêu đốt thân xác mình và cả thế gian này, thì sẽ không còn nghĩ tới việcso kè từng xu mà chỉ biết nhìn lại xem trong hai tay mình còn lại những gì đểhiến dâng cho kẻ khác.

Bối cảnh của bài kinh nàythật thi vị và thiêng liêng. Đức Phật đang ngồi thiền yên lặng giữa đêm khuya nơingôi vườn Kỳ Viên thì có một nữ thiên nhân (devata) hiện ra, ánh hào quang soisáng cả khu vườn. Vị nữ thiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn và đảnh lễ, rồi ngồisang một bên. Đấng Thế Tôn cảm ứng cho vị nữ thiên nhân hát lên bài hát của mộttrận hỏa hoạn để hàng ngàn đệ tử của Ngài và các người thế tục đang mơ màngtrong khu vườn có thể lắng nghe giữa đêm thâu thanh vắng. Sau đây là phần chuyểnngữ toàn bộ của bài kinh trên đây dựa theo bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếngAnh của Thanissaro Bhikkhu (The Access toInsight, June, 2010):

"Tôi từng được nghe như thếnày: Có một lần Đấng Thế Tôn đang ngụ tại tu viện của ngài Cấp Cô Độc(Anathapindika) trong khu vườn Kỳ Viên, gần thành Xá-Vệ (Savatthi). Vào lúc nửađêm, hiện ra một nữ thiên nhân tỏa ánh hào quang chiếu sáng cả khu vườn. Vị nữthiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khingồi sang một bên thì cất tiếng để hát lên bài hát sau đây:

"Khi căn nhà bốc cháy,
Những gì còn sót lại,
Là những vật đã cho.
Kìa của cải giữ lại,
Đang hóa thành bụi tro.
Cả thế gian bốc cháy!
Tuổi già thanh củi mục,
Cái chết ngọn lửa hồng.
Bảo toàn nhanh của cải:
Hiến dâng bằng hai tay.
Vật cho là quả ngọt,
Giữ lại, mối lo buồn:
Nào vua quan dòm ngó,
Nào kẻ trộm rình mò,
Hỏa hoạn, một đống tro.
Kìa thân xác bỏ lại,
Nằm kia cùng của cải.
Hỡi những ai giác ngộ!
Nắm lấy hạnh phúc này,
Bằng hai tay để ngửa.
Hân hoan đôi bàn tay,
Dù chỉ là ít ỏi,
Một chút này hiến dâng.
Con đường nào rộng mở,
Cõi thiên nhân đón chờ".
(Tương Ưng Bộ Kinh, Samyutta Nikaya, I,41)

Dịch thơ rất khó để tôn trọngtừng chữ một, do đó xin chép lại dưới đây bản dịch bằng tiếng Anh củaThanissaro Bhikkhu nhằm giúp các độc giả nào muốn tìm hiểu thêm:

When a houseis on fire
the vessel salvaged
is the one that will be of use,
not the one left there to burn.

So when theworld is on fire
with aging and death,
one should salvage [one's wealth] by giving:
what's given is well salvaged.

What's givenbears fruit as pleasure.
What isn't given does not:
thieves take it away, or kings;
it gets burnt by fire or lost.

Then in theend
one leaves the body
together with one's possessions.
Knowing this, the intelligent man
enjoys possessions and gives.

Havingenjoyed and given
in line with his means,
uncensured he goes
to the heavenly state.


Bures-Sur-Yvette, 21.11.11

Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/02/2013(Xem: 5483)
Cách đây gần 30 năm, ông Huang Funeng bị mù sau khi mắc căn bệnh thoái hóa mắt. Kể từ đó, vợ ông, bà Wei Guiyi, trở thành đôi mắt của chồng. Hình ảnh người vợ còng dùng gậy tre dắt chồng mù không còn xa lạ với người dân ở tỉnh Quảng Tây.
07/02/2013(Xem: 12653)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn Hoằng Pháp HT Thích Như Ðiển tại Âu Châu từ ngày 27-3-2013 đến 21-05-2013
06/02/2013(Xem: 4801)
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tấtcả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
04/02/2013(Xem: 7777)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 5688)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 6265)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 9523)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 6487)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 5722)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 6533)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567