Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng nhớ Đức Phật

03/05/201102:20(Xem: 7265)
Tưởng nhớ Đức Phật
celestial-buddha-wat-rong
TƯỞNG NHỚ ĐỨC PHẬT
P. Gopakumar

Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bi và trí tuệ, Phật giáo giúp chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của những chấp thủ và đau khổ của con người, cũng như cung cấp cho nhân loại con đường đạt đến giải thoát khỏi những đau khổ.

Theo Phật giáo, con người là một thực thể cứu cánh, nhưng vốn bị ràng buộc, trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Cuộc sống con người là một biển khổ mênh mông, tất cả mọi người bất luận tôn giáo, chủng tộc hay địa vị xã hội đều không thể tránh khỏi đau khổ, đó là một sự thật không thể chối cải được.

Nguyên nhân của mọi đau khổ của con người là do Vô minh, Vô minh là nguồn gốc phát sinh mọi tham ái và chấp thủ. Nếu chuyển hóa được vô minh thành trí tuệ thì con người có thể đạt đến giải thoát khỏi mọi đau khổ trong cuộc đời. Sự chuyển hóa này hoàn toàn có thể thực hiện được thông qua sự tu luyện tâm thức và giữ gìn giới luật.

Phật giáo tin rằng tất cả mọi người đều có thể đạt đến giải thoát giác ngộ, tức Niết Bàn, ngay trong đời này. Niết bàn không phải là lẫn tránh vòng sanh tử luân hồi mà là sự giải thoát của con người khỏi những chấp thủ của tâm. Niết bàn, nghĩa là một sự chấm dứt, nhưng không phải theo nghĩa chấm dứt sự sống, mà là chấm dứt hay giải thoát mọi khổ đau. Niết bàn trong Phật giáo là sự chấm dứt mọi tham ái và chấp thủ.

Đức Phật thường nhắc nhở các đệ tử rằng, mục đích tối hậu của cuộc sống là giải thoát khỏi mọi vướng mắc ràng buộc của cuộc sống chứ không phải chấm dứt đời sống. Vì vậy, một người hướng đến Niết Bàn không có nghĩa là tìm cách thoát khỏi thế giới này, mà là hiểu rõ về sự thật của thế giới này, sống trong thế giới này mà không bị ràng buộc bởi những vướng mắc, chấp thủ. Giữa một người bình thường và một người đã giác ngộ không có sự khác nhau về mặt vật lý, mà chỉ có sự khác biệt về mặt tâm linh; người đã giác ngộ thì không còn bị trói buộc bởi những tham ái và chấp thủ trong cuộc sống.

Theo Phật giáo, một hành giả muốn đạt đến giải thoát giác ngộ, phải tuân giữ giới luật và thực hành theo giáo pháp; các giáo pháp đó là Từ Bi, Nghiệp báo, Đoạn tham, Đoạn dục, Đồng sự và Bất bạo động…, nếu hành giả thoát ly khỏi cộng đồng hay xã hội thì làm sao thực hiện được pháp môn từ bi hay đồng sự được.

Ngày nay thế giới bị ngăn cách bởi các ranh giới như tôn giáo, chủng tộc, quốc tịch, ngôn ngữ, giai cấp hay ý thức hệ. Thế giới của chúng ta có rất nhiều nguồn lực, chúng ta có rất nhiều đất đai, nhiều thực phẩm và nhiều tài nguyên khác để duy trì sự sống của chúng ta, nhưng chính vì lòng tham lam vô tận của con người mà tạo nên sự hận thù và chia rẽ ngày càng gia tăng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng: “Với hận diệt hận thù, Đời này không có được. Từ bi diệt hận thù, Là định luật ngàn thu”. Chính vì vậy, chúng ta phải biết chia sẽ và yêu thương nhau, thì mới có thể làm cho thế giới của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn.

Phật giáo cho rằng chỉ có nổ lực của chính mình mới có thể đạt đến giải thoát giác ngộ. Phật giáo bao dung tất cả sự khác biệt của mọi người về kinh nghiệm sống, bối cảnh văn hóa cũng như tín ngưỡng tôn giáo. Phật giáo là một tôn giáo của từ bi, hỷ xả và khoan dung, bình đẳng đối với tất cả mọi chúng sanh. Đạo Phật không tự rao giảng rằng, chỉ có Phật giáo mới là tôn giáo vượt trội hơn các tôn giáo khác, không phân biệt kỳ thị đối với bất kỳ ai cũng như bất kỳ tôn giáo nào, mà là bình đẳng đối với tất cả mọi người cho dù họ có tín ngưỡng khác với Phật giáo. Chính vì vậy, Phật giáo không bắt buộc ai phải cải đạo, đó là tính chất nhân bản của Phật giáo. Tất cả hữu tình chúng sanh đều được tôn trọng bình đẳng và đều có khả năng đạt đến giải thoát giác ngộ thành Phật. Và hãy nhớ rằng, trong cộng đồng thế giới có xu hướng ngày càng toàn cầu hóa này, tất cả chúng ta đều là những người mà cuối cùng phải gánh chịu những nghiệp quả xuất phát từ những hành động của chúng ta hôm nay.

Đạo Phật dạy chúng ta phải tu tập những hành vi, cử chỉ trong cuộc sống hàng ngày để đạt đến mục đích bất bạo động, từ bi và hợp tác. Đó là những bước căn bản nhất phải thực hiện, chứ không phải chỉ nói suông. Những kẻ chỉ biết kính cẩn tụng đọc kinh điển mà lơ là trong việc thực hành, tức là đã phản bội lại tinh thần chân chính của Phật giáo. Chư Phật trong quá khứ cũng đã thực hành hạnh từ bi cứu khổ và không ngừng cứu độ cho tất cả chúng sanh trong nhiều đời nhiều kiếp, và cuối cùng khi Công hạnh đã viên mãn, thành tựu quả vị Phật, đã thị hiện một Đức Hạnh cao quý như là thông điệp cho tất cả chúng ta.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi giác ngộ, đã đi khắp nơi thuyết pháp độ sanh trong suốt 49 năm, lưu lại cho chúng ta vô số kinh điển, thần chú và pháp môn tu tập. Ngài đã giáo hóa và làm gương cho nhiều vị vua quan, dân chúng từ già trẻ trai gái, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo hay giai cấp xã hội. Sự dấn thân hóa độ của Đức Phật đã thể hiện truyền thống nhân bản của Phật giáo, là tịnh hóa nhân tâm và thiết lập nhân gian tịnh độ. Hình ảnh Đức Phật là tấm gương sáng trong việc thực hành hạnh từ bi và hòa bình hợp tác.

Để nối theo gót chân Phật, trước hết chúng ta phải biết phát hiện và nuôi dưỡng Phật tính vốn có, cũng như phát khởi và nuôi dưỡng Bồ Đề tâm có sẳn trong mỗi chúng ta để mở toang cánh cửa giải thoát giác ngộ, giải thoát hết mọi khổ đau trong cuộc đời. Bằng sự phát hiện và nuôi dưỡng kho báu vô giá đó, chúng ta có thể giúp cho tất cả hữu tình chúng sanh khác phát hiện những đức tính vốn có sẳn trong họ như từ, bi, hỷ, xã, thanh tịnh, trang nghiêm và sự báo ân. Có nhiều phương pháp nhỏ có thể giúp ta khởi động quá trình đi tìm kho báu vô giá đó, chẳng hạn như phải biết tôn trọng sự sống của mình cũng như tất cả mọi loài, tôn trọng và bảo vệ môi trường tự nhiên, phải có thái độ biết ơn, đừng tham lam và biết tri túc…

Chúng ta cần phải xét lại những ứng phó xưa nay của chúng ta đối với sự mất trật tự và bạo hành; chúng ta thường có khuynh hướng dùng hình phạt đối với những người gây ra bạo hành, mất trật tự, để ngăn chận không cho nó trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, hình phạt chỉ đạt được những kết quả tạm thời mà thôi, chỉ có sự chuyển hóa, chuyển hóa bạo lực thành hòa hợp, đố kỵ thành tán thán, xan tham thành bố thí, bất tịnh thành thanh tịnh …mới có thể chấm dứt được bạo hành. Chúng ta không thể chỉ dựa vào những hình phạt một cách tiêu cực như thế mà phải thúc đẩy thực hiện quá trình chuyển hóa với thái độ tích cực, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, hơn nữa phải có tâm từ bi, hợp tác và công bằng, chân thành đối với tất cả chúng sanh.

Thích Chí Viên dịch
(Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Liễu Quán)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/10/2010(Xem: 9181)
Lẽ thường trong chúng ta, ai ai cũng đều có một cái “cái ngã”, hay “bản ngã”. Không những cái ngã của chính mình mà còn ôm đồm cái bản ngã của gia đình mình, của bằng hữu mình, của tập thể mình, của cộng đồng xã hội mình, của tôn giáo mình, của đất nước mình, và thậm chí cho đến cái bản ngã của chủ nghĩa mình; dù đó là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, hay chủ nghĩa hiện sinh...
09/10/2010(Xem: 9205)
Sáutu sĩ khổ hạnh quấn trên người những chiếc áo bạc màu bụi đường cùng nhau "tiến sâu vào lãnh thổ của xứ Ma-kiệt-đà"(Magadha) trong thung lũng sông Hằng (PhổDiệu kinh - Lalitavistara). Họ đixuyên ngang các thôn xóm và những cánh đồng xanh mướt. Chung quanh cảnh vật êm ảvà lòng họ thật thanh thản. Họ là những người quyết tâm từ bỏ gia đình để chọnmột lối sống khắc khổ, không màng tiện nghi vật chất mà chỉ biết dồn tất cả nghịlực để đi tìm bản chất của thế gian này và nguyên nhân đưa đến sự hiện hữu củachính họ.
06/10/2010(Xem: 7813)
Sở dĩ tôi nói tới ăn uống ở hàng đầu vì có thể tới 90 phần trăm những bệnh của con người là do ăn uống mà ra. Cơ thể ta luôn luôn giữ một mức độ thăng bằng trước những biến đổi ngoại cảnh. Ngoại cảnh có nóng hay lạnh, cơ thể vẫn giữ ở một mức độ 30 độ bách phân. Ngoại cảnh có làm tim ta đập nhanh hay chậm một chút nhưng sau đó cơ thể vẫn giữ ở mức độ 70 tới 100 nhịp tim mỗi phút. Cũng như vậy đối với huyết áp, số lượng máu, nồng độ của các chất hữu cơ hoặc vô cơ trong cơ thể. Ăn uống chính là đưa các chất ngoại lai vào cơ thể. Nếu đưa vào cho đúng cách, cơ thể sẽ được bồi dưỡng đầy đủ, hoạt động tốt. Nếu không cho đúng cách, hoặc quá nhi
06/10/2010(Xem: 17066)
Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma (q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”.
06/10/2010(Xem: 8743)
Ngày Đức Thế Tôn dạy: “ không bao lâu nữa Ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn” Ngài A Nan lòng buồn vô hạn, với những nỗi lo hết sức chân tình, lo Phậtđi rồi lấy ai nương tựa, lo Phật không còn ai là người lèo lái con thuyền Phật Pháp, lo cho sự truyền thừa đạo mạch Phật Giáo mai sau.
05/10/2010(Xem: 8062)
Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo quyền cao, chức trọng, danh thơm tiếng tốt. Họ bằng mọi thủ đoạn để lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, cố mong được địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm đủ mọi cách để nắm giữ cho được cái danh vọng, hư ảo nhằm đạt được quyền lợi tối cao.
03/10/2010(Xem: 8090)
Người tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, thì suốt đời lân la bên cạnh những món ngon vật lạ, quanh quẩn bên những tiệc tùng, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ nên phải giết hại nhiều các loài vật để bồi bổ cho mình.
03/10/2010(Xem: 17408)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
03/10/2010(Xem: 10300)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
03/10/2010(Xem: 9846)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]