Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm niệm Thánh Đản

13/04/201105:23(Xem: 7037)
Cảm niệm Thánh Đản
Phat Dan Sanh 21
CẢM NIỆM THÁNH ĐẢN

Như Đức

Tháng tư, những cây phượng vẫn còn nở đỏ rực. Đi ngang con sông thấy nhánh phượng gie bên bờ, một vầng hoa đỏ như ngọc chói chang trong nắng. Tôi chợt nhớ đến Ngọc Phượng, bạn cùng lớp hồi xưa và nhớ luôn Thu Thảo ngồi cạnh nó. Hai đứa như hai thái cực. Thu Thảo thì hiền lành ít nói, suốt buổi học chẳng thấy hé môi, còn ngọc Phượng thì tía lia không ngớt. Vì sự đối nghịch đó mà bạn bè thường nhớ hai đứa một lần. Riêng Thu Thảo có một cái họ rất lạ. Ngày đầu tiên nghe cô giáo kêu tên Lục Thu Thảo, cả lớp quay ngược quay xuôi để ngó mặt nó. Con nhỏ cũng cừ, bị bạn bè chọc ghẹo là bà con của Lục Vân Tiên, lục nồi, lục bình... gì gì đi nữa, nó vẫn làm thinh. Chỉ có một lần, khi cô dạy văn giảng hai câu thơ của bà Huyện Thanh quan: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương... nó bị đổi tên thành Hồn Thu Thảo. Chúng tôi vừa kêu vừa cười như mọi lần, nhưng nó đứng lên thưa cô, nó nói chữ lục là màu xanh trong, ba nó dặn nó như thế. Cô giáo cũng đồng ý và rầy cả lớp, không được chọc ghẹo tầm bậy. Chúng tôi mới biết nó tuy ít nói nhưng không phải dễ chịu thua.

Ký ức về Phượng và Thảo đối với tôi không phải dừng ở chỗ tên họ. Chúng tôi thường học bài chung với nhau ở sân chùa, và vào những ngày lễ vía hay rằm lớn, quý cô hay đem cho xôi chè, trái cây. Đó là những món quà thần tiên, như trái ổi hay chùm mận hái được từ vườn chùa. Đặc biệt vào những dịp lễ Phật Đản chúng tôi như hòa vào không khí chuẩn bị tươi vui, Phượng và Thảo có khi ở lại ăn cơm, ngủ lại với tôi. Trang trí vườn Lâm-tỳ-ni là chuyện thích nhất. Chúng tôi làm hoa giấy, kết vào những chậu hoa đặt chung quanh chỗ Phật đản sanh, kết thành chuỗi treo chung với hoa lài, hoa sứ, học làm đèn hoa sen, dự lễ phóng đăng, lễ tắm Phật. Mỗi đứa được múc nước thơm tưới lên tượng sơ sinh. Không khí trầm hương nhã nhạc, thôi không nói làm gì, nỗi vui mừng chào đón Đản sanh mỗi năm đều lặp lại mà chúng tôi vẫn ưa thích.

Khi lớn lên, biết suy xét, Ngọc Phượng chia sẻ với tôi những suy tư của nó, cũng trong một dịp Phật Đản. Nó vốn là cây triết lý của lớp ban C, nên trích dẫn xa gần mấy câu thơ: “Tôi bước vào đời như loài thảo mộc. Rồi bỗng lớn lên như lũ thú rừng...”. Bài thơ nói đến thân phận người, sinh ra tình cờ như cỏ cây, không chủ động đời sống, không biết phải làm gì trong thế giới này. Rồi đến kết cuộc... “Sáng sáng dừng chân nhìn quanh lớp học. Nhìn lại đời mình buồn đến thế ư?” Tôi biết bài thơ này của N.X.H. bạn bè trong lớp cũng có đứa thuộc. Nhưng Phượng đi xa hơn, nó nói đó là sự tìm kiếm, sự than vãn, và đặt câu hỏi về sự toàn vẹn. Chỉ có một người có thể trả lời, đó là đức Phật. Với một người như thế, với một đời sống bắt đầu và kết thúc đều có mục đích hướng đi rõ cũng như thế thì ngày sinh nhật của vị ấy mình tổ chức long trọng, chào mừng vui vẻ. Có những tiệc tùng sinh nhật mà mình tham dự một cách ngán ngẩm vì không biết kẻ ấy ra sao. Cách nói của Phượng, bạn bè trong lớp vẫn gọi nó là cụ non, nhưng chúng tôi phải công nhận nó đúng.

Thời gian chia cách đã lâu. Giữa chúng tôi có những dòng thay đổi, có những dòng đời chưa kịp chạm đến đã đi xa. Thu Thảo bây giờ chắc đang độ mùa thu, không còn như thuở xanh trong, đứng giữa lớp cãi lý cho một mầu lục non. Phượng cũng không còn đỏ rực. Chúng tôi đều đi vào tuổi tri thiên mệnh. Ở tuổi này Khổng Tử cho rằng người ta đã sáng suốt, tỉnh táo, biết sống thuận lẽ đạo. Tôi đi theo con đường của Đức phật, càng lúc cùng cảm nhận điều đó. Một vị Phật ngay từ khi vào đời, đã biết được lẽ minh triết trong cuộc sống, không đợi phải đi qua tuần tự thời gian. Ngày trẻ tuổi chúng tôi vẫn thường lý luận về đạo, nhưng vẫn vấp phải vô số lỗi lầm, nếu nhìn lui vô số đời, ắt là si mê vô cùng, giữa những quờ quạng mệt nhọc không biết bao lần hỏi “Đời mình buồn đến thế ư?” Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư. Thấy biết được việc làm của mình, biết giá trị sự có mặt của chính mình, và biết sống không đến nỗi uổng đời. Những điều đó nếu không đi theo sự chỉ dạy của Phật, nếu đóa hoa Đàm không một lần xuất hiện, chúng ta vẫn không ngừng than khổ. Tôi muốn chia sẻ cảm nhận và niềm tri âm sâu xa đức Phật, với bạn bè cùng thời, như Phượng chẳng hạn.

Biết lý luận, đặt câu hỏi và biết người giải đáp câu hỏi, nhưng Phượng có thể không tìm nó ngay dưới chân đức Phật. Trong đời sống, giữa những phức tạp đa đoan, vào một ngay thật bình thường, ta chợt nhận ra ánh sáng bình minh của lễ Thánh Đản.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2015(Xem: 14173)
Hề chi một phận đời riêng Buông hơi nằm xuống mà nghiêng đất trời Thiếu ta, đời cũng vậy thôi! Ta là hạt bụi giữa đời bao la..
01/07/2015(Xem: 24577)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 20838)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11831)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9717)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8313)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12335)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31768)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13293)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12526)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]