Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng sóng hải triều âm đến từ bảo tượng Bồ Tát Quán Thế Âm

08/04/201316:41(Xem: 8679)
Tiếng sóng hải triều âm đến từ bảo tượng Bồ Tát Quán Thế Âm
Bo_Tat_Quan_The_Am_5

Tu Tập Hạnh Bồ Tát

Tìm Hiểu Các Vị Bồ Tát

Tiếng Sóng Hải Triều Âm Đến Từ Bảo Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm

Cư Sĩ Liên Hoa

Nguồn: Cư Sĩ Liên Hoa


Mấy ngày vừa qua, thành phố Houston- Texas, mưa thật nhiều. Không biết lượng nước mưa từ đâu đổ dồn về, có lúc kéo dài 21 ngày liên tục. nhiều vùng bị lụt, nhiều nơi bị những cơn giông làm sụp nhà cửa. Theo tin tức đã có 13 người chết.

Thời tiết xấu làm lòng mọi người chùng xuống, lo âu, sợ sệt. Biết bao nhiêu là biến động đổ ập đến con người. Nào thời tiết, nào chiến tranh, nào khủng bố v.v…cũng báo động đến một hiện thực là cuộc đời mang bản chất vô thường. Không một hiện tượng nào có thể tồn tại mãi với thời gian, theo lẽ thành trụ hoại không.

Nhưng ngày vừa qua, hôm thứ sáu 13.07.2007, có một tin tức vô cùng quan trọng, làm cho tâm mọi người tràn đầy hớn hở, vui mừng, ấm cúng. Đó là tờ báo địa phương Houston Chronicle loan tin Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm tại Trung Tâm Phật Giáo Chùa Việt Nam đuợc chọn là 1 trong 7 kỳ quan của thành phố Houston, Texas.

Đây là một tin vô cùng chấn động như sau bao nhiêu ngày mưa gió, ánh mặt trời xuất hiện trên bầu trời, soi sáng rực rỡ, xoá tan màu u ám. Đây là niềm hãnh diện to lớn đối với Cộng Đồng người Việt Nam tại Houston cũng như ở mọi nơi- nói chung, và của chư Tăng Ni Chùa Việt Nam cùng tất cả những người con Phật, nói riêng.

Như tất cả mọi người, tôi chạy vội đến chùa Việt Nam, đứng im lặng trước Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, chấp tay, chiêm ngưỡng. Cũng là của Tượng Ngài mà bao nhiêu năm tháng qua, khi đến Chùa, tôi đã gặp, nhìn và luôn tỏ lòng thán phục trước kỳ công kiến tạo nầy.

Đây phải là tâm nguyện cao đẹp do lòng từ của một con người có ý nghĩ độc đáo, của chư Tăng Ni tại Chùa- muốn có một Tôn Tượng Bồ tát Quán Thế Âm lộ thiên to lớn, cho mọi người chiêm ngưỡng; đã kết hợp cùng một cô gái tên là Mai Chi- với tấm lòng xuất trần, tâm thành thanh tịnh, thương yêu bóng dáng và công hạnh từ bi, và cùng những người con Phật với biết bao nhiêu ước nguyện, mong mỏi- đã tạo và hình thành nên pho Tượng hùng vĩ, thánh thiện, từ bi nầy. Đó là Bảo tượng Bồ tát Quán Thế Âm.

Tượng Bồ tát Quán Thế Âm được tạc bằng đá màu trắng bạch, cao 72 feet. Dáng thẳng đứng, thanh thoát. Gương mặt đẹp dịu hiền, nét đẹp chứa đựng cả một cõi lòng, một bầu trời bao la của từ bi, hỷ xả. Tay cầm bình tịnh thủy, tay với nhành dương liểu.

Màu trắng là màu của " Bạch Tịnh Thức" là tổng hợp hay do 7 màu sắc khác nhau hợp thành. Mỗi màu là mỗi sắc thái biến dị của tâm, nhưng được dung chứa trong thức Bạch Tịnh hay thức A Lại gia. Tượng vươn cao trên bầu trời như ý nghĩa vươn mình trên tất cả mọi uế nhiễm, năm trược của cuộc đời để tế độ, ban vui cứu khổ- cho đời như tấm lòng của bà mẹ "nhược mẩu ức tử " thương yêu đứa con duy nhất . Đây quả là một kỳ công hy hữu, nhiều ý nghĩa và khó tưởng tượng có thể thực hiện được, nhưng nay, hiện đứng hùng vĩ trước sân Chùa Việt Nam.

Trước Tôn Tượng của Ngài, trong lòng tôi làm sao ấy. Tượng bỗng trở nên to lớn, phi thường và có một giá trị vô cùng mầu nhiệm, đối với riêng tôi- một người Phật tử Việt Nam tầm thường, cùng với tất cả những người con Phật khác.



"Bồ tát Quán Thế Âm, tiếng Phạn gọi là Avalokiteshvara Boddhisattva. Quán là quán tưởng, có nghĩa là xét thấy bằng tư tưởng và trong tư tưởng, tức Trí năng quán. Thế là thế gian, tức Cảnh sở quán. Âm là tiếng hay âm thanh.

Quán Thế Âm có nghĩa là xét thấy, xét nghe tiếng của thế gian đau khổ, lo sợ, bởi vì tất cả chúng sanh đều có hoặc nghiệp nên mới hoà hợp với nhau mà hiện ra các khổ tướng báo thân. Cho nên, Quán Thế âm cũng có nghĩa là Trí năng quán, tiêu biểu cho Đại bi Đại từ của Đức Phật, tức Tâm. Mà tâm thời ai cũng có, vì thế, Đức ấy có thể hiện trong bất luận chúng sinh nào, từ cõi trời xuống đến cõi người, A-tu-la v.v…để độ thoát chúng sinh trong ba nẻo, sáu đuờng…" ( 1 )

Theo Kinh, thì "Bồ tát Quán Thế Âm đã thành Phật từ vô lượng kiếp xa xưa, hiệu là Như Lai Chánh Pháp Minh, nhưng vì đại nguyện độ sinh nên ứng hoá thân để cứu độ.

Có một số ghi nhận rằng Bồ Tát Quán Thế Âm có thể loại trừ Thất nạn ( bảy nạn) như: lửa, nước, La sát, đánh chém, ngạ quỷ, gông cùm và oán thù. Hoặc Nhị cấu ( hai sự cầu xin): cầu có con trai hoặc con gái. Hoặc Tam thập Nhị Ứng tức 32 ứng thân để độ chúng sinh." ( 2) như trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn đã nói.

Nhưng cần nhấn mạnh rằng, Bồ Tát Quán Thế Âm là biểu tượng của Đức Tánh Đại Từ Đại Bi của Phật, cho nên ứng hoá thân của Ngài không chỉ có chừng đó, mà là thiên hình vạn trạng, trăm ngàn vạn ức hoá thân, tùy theo khổ nạn của chúng sanh cầu nguyện, tưởng nhớ đến mà hiện thân độ thoát. Vì chúng sanh còn bị vô minh nên chiêu cảm nghiệp lực, khổ đau, lăn chuyển trong sáu nẻo trầm luân, biến thành tâm khổ nạn biến hình thay dạng vô biên, thì ứng hoá thân của Bồ Tát cũng vô cùng vô tận để tùy duyên, tương ứng, khiến giải thoát cho khỏi tâm niệm khổ đau.

Muốn tìm hiểu sâu hơn ý nguyện, tâm nguyện và hoài bảo của vị Thượng Toạ Trụ trì Trung tâm Phật giáo Chùa Việt Nam cùng chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử qua việc kiến tạo Bảo Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nầy, chúng ta cũng cần đào xới và khái quát qua chút ít tư liệu về Lịch sử Phật giáo tại Hoa kỳ.



Đạo Phật hiển nhiên đã và đang thấm nhuần và mở ra một chân trời mới trong bản tâm của người dân bản xứ Hoa kỳ, vì họ nhận thấy rằng Đạo Phật là một tôn giáo kỳ diệu, khoan dung và hoà bình.

Trong lịch sử truyền bá Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca, đạo Phật đi đến đâu đều hoà đồng, xan sẻ và đối thoại, sống chung với những nguồn văn hoá tâm linh của các quốc gia đó và chưa bao giờ là nhân tố để gây nên tranh chấp, hận thù, chiến tranh.

Đã bao lần Phật giáo bị lâm vào Pháp nạn do những thế lực vũ quyền, do những tư tưởng tôn giáo cuồng tín, kỳ thị… đàn áp, tàn sát, giết hại mạng sống, đập phá những tự viện tu hành, hũy diệt kinh sách v.v…nhưng chưa bao giờ, chưa bao giờ Phật giáo mang lòng hận thù để đối đáp, trả oán…mà chỉ chịu đựng để bị giết hại, bị đánh đập hoặc tìm cách lánh nạn đi nơi khác. Phật giáo chịu đựng, bất bạo động để rồi toả ngời sáng, lan rộng khắp năm châu bằng sự khoan dung, tha thứ, cầu xin hồi hướng đến kẻ gây khổ đau cho mình. Phật giáo im lặng để vượt lên trên cao, đem mắt trí tuệ sáng soi, đem lòng từ báo đáp, thương cho những kẻ vô minh.

Văng vẳng đâu đây, lời của Ngài Lão tăng Thái Hư:" Phồn hoa ngã bất hoài vinh nhục" hay như tiếng nói của Phật giáo Việt Nam năm nào trước họng súng đạn, trước hận thù, bạo động v.v..đã nói rằng:" Chúng tôi nguyện đem xương máu để trang trải cho Đạo Pháp và Dân tộc và nếu có chết thì chết như một chân lý trước bạo lực, chứ không phải bạo lực nầy kém bạo lực khác".

Vâng, chỉ như cái chết của một chân lý trước bạo lực, bởi vì tấm lòng của những người theo đạo Phật là cõi lòng của Hỷ Xã Từ Bi, trong sáng và không hận thù, không bạo động.

Đạo Phật coi trọng con người vì từ con người, mọi hướng đi về các cõi, các nẻo thành hình, như kinh Hoa Nghiêm " tâm người như người như người hoạ sĩ, có thể vẽ nên mọi cảnh đời" . Đau khổ, hay Hạnh phúc đều do chính con người là chủ nhân sáng tạo.

Giới sát sanh của đạo Phật coi trọng mạng sống của các loài từ mạng sống của những sinh vật nhỏ bé như: trùng dế… chí đến như các loài súc sanh lớn hơn như: chó mèo heo trâu bò v.v…huống hố là mạng sống cao quí của con người.

Cho nên, đến với Đạo Phật là đến nơi vườn tâm êm ái, không hận thù, không oán ghét và thuần hương vị hoà bình, giải thoát, vì nổi đau của muôn loài cũng là nổi đau của những người mang hạnh nguyện đem lợi ích, an vui cho người, muôn vật, thiên nhiên. Chưa có một vị Giáo chủ nào trên thế gian nầy dám nói:

" Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành"

Giá trị con người đã được đạo Phật đưa lên ngang hàng với Đức Phật, nếu chuyển đổi tâm chấp trước, tâm vô minh….để trở nên vị Tỉnh thức- một con người Nhân bản đích thực. Cho nên, Đạo Phật có đầy lương dược cung cấp cho con người nguồn sống tâm linh vi diệu, sáng tạo và Hạnh phúc.

Chúng tôi nghĩ đây cũng chính là đại nguyện và hoài bảo của chư Tăng Ni và Phật tử Chùa Việt Nam muốn thể hiện qua việc tạc tác bức Tượng Bồ tát Quán thế Âm, vì Ngài biểu hiện cho tấm lòng Từ bi và Trí tuệ đó và cũng đã được chánh quyền của Thành phố Houston công nhận như 1 trong 7 kỳ quan của Thành phố.

Có nhiều công trình to lớn, đồ sộ khác v.v…đã không được chọn, lại chọn Bảo Tượng nầy như một kỳ quan- chính vì Phật giáo là biểu tượng của Tôn giáo Hoà bình, phóng khoáng, An lạc, Tình Yêu thương đích thực qua những gội rửa tâm, không còn tạp nhiễm.

Ghi lại những lời tâm thành nầy, như tấm lòng kính cám ơn chư Tôn Đức Tăng Ni cùng toàn thể người con Phật tại Trung tâm Phật giáo Chùa Việt Nam, đã cống hiến cho thành phố Houston nói riêng và đất nước Hoa kỳ nói chung, một biểu tượng đầy ý nghiã cao đẹp nầy.

Nhân đây, chúng con cũng có đôi lời kính lên chư vị Tôn Đức Tăng Ni ở mọi nơi.

Do những nghiệt ngã của Lịch sử Dân tộc, làn sóng người Việt Nam đã có mặt tại Hoa kỳ cũng như nhiều quốc gia khác, hơn 30 năm qua. Tại Mỹ, có một Cộng đồng Việt Nam quá trẻ so với những Cộng Đồng các sắc dân khác, nhưng do những cố gắng, cần cù, chăm chỉ làm việc, nuôi dạy con cái v.v…đời sống mọi người đều dần dà đi vào ổn định và từ đó, hướng tâm đến đời sống tâm linh, tôn giáo vì đời sống con người không chỉ có vật chất như cơm ăn, áo mặc. Chúng ta ra đi đem cả núi sông, đem cả văn hoá, tiếng nói, sắc thái đặc thù và cả nền văn hoá tâm linh của đạo Phật Việt Nam đến đất nước mới nầy.

Nguồn sống tâm linh và mạng mạch của Phật giáo do nơi chư Tôn Đức duy trì và truyền bá và đời sống mọi người khi đã an cư lạc nghiệp đều hướng đến. Đạo Phật sẽ làm gì và tất cả mọi người con Phật sẽ làm gì để nguồn sống tâm linh nầy luôn luôn chan hoà trong tâm thức của người Việt Nam, người bản xứ và các thế hệ mai sau ?

Chúng ta có rất nhiều những vị Tôn Đức, những vị « vô trụ bất thủ, sứ mệnh độ sanh », những nhà trí thức Phật giáo, những vị Tăng Ni tài đức, những Phật tử tâm huyết v.v…cũng đồng thời có nhiều khoá tu đã được tổ chức khắp mọi nơi, nhiều khoá giảng pháp, nhiều cuộc hội họp v.v…bàn đến hướng đi của Phật giáo trong hiện tại và tương lai. Thật là cao quý ! Thật là hạnh phúc lắm thay!

Tại Chùa Việt Nam ở Houston đã làm được Lễ Hội Quán Âm hay Văn hoá Dân gian Việt Nam thành truyền thống mỗi năn, để làm sống lại những bản sắc của làng xã Việt Nam trên xứ sở mới. Chúng con nghĩ rằng tất cả tâm huyết của chư Ngài cũng đều mong mỏi Phật giáo được trường tôn, phổ biến và mọi người đều được thấm nhuần để cuộc sống có an lạc, hoà bình.

Đạo Phật là Đạo của Trí Tuệ và Từ bi, Giải thoát và tất cả Đức Tánh Giác ngộ nầy cũng đều có trong tâm mọi loài. Nhưng làm sao để hạt giống Phật trong tâm mọi người được nẩy nở và trở thành nếp sống thường nhật. Chúng ta không phải chỉ đến Chùa mới tu, vì nghĩ rằng ở đó có Thầy Tổ, có tăng thân, có giáo pháp v.v…và sau đó, khi về nhà lại không mang theo được lợi lạc gì cho chính mình, huông hồ là người thân chung quanh, vì đã bỏ lại các Đức Tánh cho Chùa. Đức tánh hay hạt giống Phật trong tâm mọi người cần phải được tưới tẩm hàng ngày bằng những việc làm thường nhật, bằng hơi thở, bằng quán chiếu trong tất cả mọi hoàn cảnh, thì mới trở thành nếp sống văn hoá tâm linh.

Nếp sống văn hoá tâm linh phải thể hiện ở mọi nơi chốn, chứ không phải ở một chỗ nào nhất định. Cho nên, làm sao để Đạo Phật trở thành nếp sống, chứ không phải chỉ thuần túy là tôn giáo. Vì xem Đạo Phật là tôn giáo, chúng ta có thể chỉ có cầu nguyện, hướng mình, phóng tâm …- dù là cả tâm thành hay không- để đến một đích nào đó, nhưng…có thể bước chân đang bay hơi cao.

Đức Phật là một thể tánh thanh tịnh, sáng suốt có trong tâm của tất cả mọi người. Đó là một Thể Tánh Phổ quát, Tánh Giác mà mọi người cần tự khai phá, phát triển v.v…Cho nên, nếu chuyển được Đạo Phật trở thành nếp sống tâm linh, chúng ta có thể thấy, tiếp cận và sống với đạo Phật, với Tánh Giác trong từng sát, từng ngày, từng tháng v.v…trong bất cứ nơi chốn, xã hội hay quốc độ nào và sẽ không bao giờ có thể bỏ đạo được, vì đó là nếp sống, là tủy của cuộc đời. Đây cũng là chất liệu tâm linh cao quý của hôm nay và ngày mai mà có phải Thầy Tổ, chư Tôn Đức trao truyền và mong muốn sinh khởi, phổ biến và để truyền đi cho các thế hệ sau, không bao giờ bị mất như :.

« Mái chùa mới che chở hồn dân tộc
nếp sống muôn đời của tổ tông »

Huyền Không

Vẫn biết rằng « thế giới không hoa, thân như bào ảnh » hay « thịnh suy như giọt sương rơi đầu cành » (3), vẫn biết rằng vũ trụ vốn vô thường. Tất cả mọi hiện tượng dù hữu hay vô tướng đều theo luật sanh diệt, duyên sanh ; nhưng cho dù thời gian có thay đổi như thế nào, dù hoàn cảnh có biến thiên, nhưng một khi hạt giồng thiện đã gieo, chắc chắn sẽ nẩy mầm, sinh trưởng.

Với tất cả tâm huyết, hoài bảo của chư Tôn Đức đã rung tích trượng, đánh trống pháp tại đất nước mới nầy, kính mong rằng Phật giáo nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng, sẽ là nguồn sống tâm linh đóng góp, đối thoại, chia sẻ và đem lại ích lợi to lớn- mà trong đó mọi người, mọi loài - đều được sống trong An lạc và Hạnh phúc Chân thật.

Với tất cả lòng thành, kinh mong lắm thay.!

Ngày 19.07.2007






1- Tiểu luân Liên Hoa bộ hay Đại bi quán thế Âm của Cư sĩ Liên Hoa.

2- Pháp Hoa huyền Nghĩa- Chánh Trí Mai Thọ Truyền.

3- Lịch sử Phật giáo tại Hoa kỳ- Thầy Thích Nguyên Tạng biên soạn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8172)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7590)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7914)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9389)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14928)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8541)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13274)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8778)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10314)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9712)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]