Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật ngồi trong mưa

05/12/201010:28(Xem: 6552)
Phật ngồi trong mưa
Phat_Ngoc_4
Tôi đứng trước Phật, dưới cơn mưa nhẹ.

Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu!

Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó.

Trong bóng tối, dưới mưa bay, tôi vẫn lờ mờ thấy nụ cười từ ái, an nhiên của Phật. Phật ngồi trên bục gỗ đơn sơ, lưng dựa vách tường của một kho hàng, chung quanh không hoa đèn, trên đầu không tàn lọng. Phật ngồi bình dị như một vị Phật ở làng quê hẻo lánh, có mặt để giữ niềm tin cho người tuyệt vọng, để an ủi kẻ bần hàn vất vả ngược xuôi.

Nhưng đây là thị trấn một quốc gia giầu có. Và vị Phật đang ngồi trong mưa là vị Phật được hàng triệu người trên khắp thế giới chiêm bái.

Đó là tượng Phật Ngọc Hòa Bình Thế Giới.

Tôn tượng đã vân du từ Âu sang Á, từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, nơi nơi đều được cực kỳ sùng phụng, được đón rước cực kỳ trang trọng bằng những phương tiện tối tân nhất, rực rỡ nhất, tốn kém nhất mà khả năng nơi thỉnh Phật có thể làm được.

Những ai không hội đủ duyên đến chiêm bái Phật Ngọc, cũng có thể thấy được những hình ảnh độc đáo của thế kỷ này, qua bước chân hoằng hóa của Tôn Tượng Đức Bổn Sư Thích Ca được tạc bằng ngọc quý, qua những kỹ thuật thông tin tân tiến.

Vậy mà hôm nay, Phật Ngọc đang ngồi hiu quạnh trong bóng tối mưa bay…

Tôi bật khóc!

Nhưng lập tức, điều gì đó khiến tôi nhận ra ngay, nhận rất rõ, tôi không khóc vì thương Phật ngồi dưới mưa. Tôi khóc để tạ ơn Phật đã ngồi đây, trong không gian này, cho kẻ vô minh u tối là tôi có phút giây mầu nhiệm bật nhớ tới bát cháo thiu của bà lão nghèo khổ đã cúng dường Ngài Tôn Giả Đầu Đà Đệ Nhất Đại Ca Diếp.

Tôn giả thực hành pháp tu Hạnh Đầu Đà từ trước khi được gặp Phật, và trong mười điều rất nghiêm minh khổ hạnh của pháp tu này, tôn giả chỉ không triệt để tuân theo điều thứ năm, là “Khất thực không phân biệt giầu nghèo”. Với tâm từ bi lớn, Tôn Giả nghĩ rằng, người giầu đã đủ phước mới đang hưởng giầu; người nghèo cần được giúp đỡ hơn, để gieo duyên lành, mới mong có cơ hội hưởng phước điền.

Phật Ngọc đã hiện diện ở rất nhiều nơi trên thế giới, qua bao hình thức cực kỳ rực rỡ, tráng lệ. Nay bất ngờ Phật về đây, một nơi không phải chùa, mà chỉ là một phòng sinh hoạt cộng đồng, nơi bất cứ ai cũng có thể mướn để sinh hoạt. Một nơi như thế, làm sao thiết lập bệ cao uy nghiêm, trang hoàng rực rỡ như những nơi Phật từng dừng bước?

Vậy mà,

Đáng phục thay, niềm tin của những người con Phật trẻ tuổi!

Đáng quý thay, sự can đảm của lòng kính ngưỡng trong sáng!

Chủ đề “Phật Ngọc Trong Ta”của nhóm “Mắt Thương Nhìn Đời” đã nói lên điều này.

Những người trẻ phải tin bằng niềm tin mãnh liệt nhường nào, nơi lời Phật dạy, là mỗi chúng sanh đều có một vị Phật Bên Trong, mới dám thỉnh Phật Bên Ngoài về, trong phương tiện hạn hẹp như thế!

Những người trẻ cũng phải can đảm bằng sự can đảm phi thường nào, mới dám an vị Phật giữa sương gió tối tăm thế này!

Nếu lắng tâm suy nghĩ, bốn chữ “Phật Ngọc Trong Ta”của chủ đề, đã đủ giải tỏa sự việc hy hữu này. Tôn tượng Phật Ngọc quý giá ngồi nơi đơn sơ đạm bạc hay nơi hào nhoáng hoa đèn cũng chỉ để nhắc nhở chúng ta quán chiếu tự thân mà hiển lộ Phật Ngọc tự tâm. Chỉ điều này thôi. Và chỉ điều này mới là điều mười phương Chư Phật nhìn xuống, sách tấn chúng sanh. Dù Tôn Tượng bằng đồng bằng đá, hay kim cương ngọc ngà quý báu, dù Phật ngồi nơi xóm làng nghèo khổ hay đô thị giầu sang cũng không vị Phật nào chờ đợi chúng sanh sùng phụng mà không hành trì lời dạy.

Có tình cờ không, khi nhóm Phật tử trẻ đã can đảm thỉnh Phật Ngọc về nơi đơn sơ này để nói lên điều cực kỳ đáng nói, là “Phật Ngọc Trong Ta”? Nhóm trẻ đã được một vị thầy khả kính hết lòng yểm trợ tinh thần. Chính thầy, suốt thời gian Phật Ngọc ngự giữa gió sương, Thầy đều có mặt từ năm giờ rưỡi sáng để hướng dẫn đại chúng tọa thiền và lạy Hồng Danh Sám Hối.

Chính buổi sáng mưa bay này là buổi đầu tiên, Thầy chậm rãi bước tới, không che dấu nụ cười cảm động ẩn sau khăn áo mầu nâu sậm:

- Mưa gió lạnh lẽo thế này mà qúy vị cũng có mặt rồi ư?

Thầy từ bi hỏi thế, nhưng Thầy cũng đã thấy, như chúng con thấy, là Phật đang ngồi kia, dưới mưa! Và chính Thầy, thưa Thầy, Thầy cũng đang đến với chúng con, không dù, không nón, có lẽ không đủ cả áo ấm! Ôi, chỉ thế thôi, đã khiến chúng con cùng bật khóc! Không cần ngôn ngữ nào, bởi không ngôn ngữ nào chở nổi tình thương bao la của Đức Phật đang ngồi dưới mưa, của vị Thầy đang hiển lộ bước chân 1250 vị Tỳ-kheo năm xưa!

Vô hình chung, tâm tình này, cảnh giới này cũng đang thể hiện hài hòa sự hành trì của hai vị, Đầu Đà Đệ Nhất và Giải Không Đệ Nhất, trong Thập Đại Đệ Tử của Phật. Tôn Giả Đại Ca Diếp khi khất thực chỉ độ nhà nghèo vì nghĩ họ quá nghèo, thiếu hoàn cảnh và phương tiện cúng dường nên Tôn Giả phải tìm đến, giúp họ gieo duyên. Trái lại, Tôn Giả Tu Bồ Đề khi khất thực chỉ tới nhà giầu vì nghĩ rằng họ đắm nhiễm giầu sang, lơ là tu tâm tích đức, hưởng hết phước kiếp này, kiếp sau nhiều phần sẽ đọa lạc trầm luân, nên Tôn Giả đến khất thực để nhắc nhở. Hai môi trường khác nhau nhưng đều xuất phát từ tâm từ bi.

Vậy điểm hội tụ đó là gì? Có phải là từ ÁNH SÁNG PHÁP THÂN PHẬT ẩn sau hình thức Tôn Tượng, tạc bằng bất cứ chất liệu gì, an vị ở bất cứ nơi nào?

May mắn thay, những ai có cơ duyên dừng bước trước Hội Trường Sangha thuộc thành phố Huntington Beach, miền Nam California Hoa Kỳ, trong thời gian mười ngày Phật Ngọc ngự tại đây. Mỗi ngày đều có ít nhất ba thời pháp, cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh. Nhìn người bản xứ chăm chú nghe pháp, hoặc thành kính qùy trên nền xi măng, chiêm ngưỡng Phật và lạy Phật, ai trong chúng ta mà không bồi hồi cảm động! Rõ ràng, họ không đến đây để chỉ thưởng lãm, vì không có hình thức nào lộng lẫy để thưởng lãm! Phải chăng họ đã cảm nhận được điều gì thầm lặng, sâu sa nhưng cực kỳ mầu nhiệm, qua thế ngồi lặng thinh, tự tại của Đức Bổn Sư Như Lai mà tìm đến, lạy Phật một lạy, tâm bình, thế giới tất bình theo.

Kính cảm tạ Chư Tôn Đức đã tới chứng minh một điều mà người con Phật cần nhìn thấy, là “Phật Ở Mọi Nơi”.

Kính cảm tạ Chư Vị Giảng Sư đã từ bi và hoan hỷ ban pháp-thực.

Kính cảm tạ HT Thích Phước Tịnh đã có mặt mỗi buổi sáng mờ sương, hướng dẫn đại chúng bằng pháp thân thanh tịnh khi tọa thiền cũng như khi thành kính lạy Hồng Danh Sám Hối.

Kính cảm tạ Đại Đức Thích Hạnh Tuệ đã mỗi chiều hướng dẫn trì tụng Chú Đại Bi trong lễ thắp nến cầu nguyện.

Sự trải lòng tôn kính và giảng bày giáo pháp Chư Phật của quý Ngài đã tỏa trong không gian khiêm tốn này, làn hương kỳ diệu của Giới Định Tuệ, dẫu lặng thinh, vô hình mà thơm tho từ nhành cây đến bụi cỏ.

Sau, không thể không cám ơn và tán thán nhóm bạn trẻ Mắt Thương Nhìn Đời, các thiện nguyện viên từ khắp nơi, đã thể hiện cụ thể hai điều, tưởng dễ, qua lời nói, nhưng không dễ, qua việc làm. Đó là: Niềm tin và lòng can đảm.

Huệ Trân
(Huntington Beach, Cali, trung tuần tháng 11-2010)

Mời Xem Thêm:

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4708)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7553)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4743)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6171)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12128)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]