Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

TẠO RA HẠNH PHÚC

18/10/201203:28(Xem: 9072)
TẠO RA HẠNH PHÚC



AjahnBrahm


TẠO RA HẠNH PHÚC

Thiền sư Ajahn Brahm




Không lo lắng


Buông bỏ “người điều khiển”, tiếp xúc nhiều hơn với giây phút hiện tại và sẵn sàng hơn đối với sự bất định của tương lai giải phóng cho chúng ta khỏi nhà tù của sợ lo sợ. Nó giúp chúng ta đáp ứng với những thách thức của cuộc đời với tuệ giác sẵn có của mình, và đưa chúng ta ra khỏi tình huống khó khăn một cách an toàn.

Có lần tôi đang đứng giữa một trong sáu dòng người xếp hàng trước thanh chắn của bộ phận quản lý nhập cảnh tại sân bay Perth. Lúc ấy tôi vừa trở về từ Sri Lanka quá cảnh Singapore. Dòng người di chuyển một cách chậm chạp ; rõ ràng là người ta đang kiểm tra gắt gao. Một nhân viên hải quan chợt xuất hiện từ cánh cửa bên của hành lang, dẫn theo một con chó nghiệp vụ được huấn luyện để tìm ma túy. Các hành khách vừa đến mỉm cười một cách hồi hộp khi nhân viên hải quan dẫn con chó đi lên đi xuống dọc theo dòng người. Mặc dầu họ không mang ma túy nhưng sau khi con chó dừng lại ngửi rồi bỏ đi ai cũng thở phào nhẹ nhõm.

Khi con chó nhỏ đi đến sát tôi và ngửi, nó dừng lại, rúc cái mõm nhỏ xíu của nó vào lưng áo của tôi và vẫy đuôi thành vòng tròn. Viên sĩ quan phải giật mạnh sợi dây để lôi nó đi nơi khác. Người hành khách đứng trước tôi trong hàng trước đây có vẻ thân thiện bây giờ bước lên một bước tránh xa ra. Và tôi biết chắc hai người ở phía sau tôi cũng bước lui một bước.

Sau đó năm phút, khi tôi đứng gần quầy kiểm tra hơn thì người ta lại dẫn con chó đi lên một vòng nữa. Con chó đi lên, đi xuống dọc theo hàng người, dừng lại trước từng hành khách, ngửi ngửi, rồi bỏ đi. Khi nó đến sát bên tôi nó lại dừng lại, rúc đầu vào áo của tôi và vẫy đuôi lia lịa. Người nhân viên hải quan lại phải giật mạnh sợi dây để lôi nó đi. Tôi thấy mọi cặp mắt đều đổ dồn vào tôi. Mặc dầu trong tình huống như vậy nhiều người có thể đâm ra lo lắng, nhưng tôi thì vẫn thản nhiên. Nếu tôi phải vào nhà giam thì cũng được, ở đó tôi có nhiều bạn bè và họ có thể cho mình ăn ngon hơn ở tu viện !

Khi tôi đến quầy kiểm soát họ kiểm tra tôi rất kỹ. Tôi không có ma túy, nhà sư cả rượu cũng không uống kia mà. Họ không bắt tôi cởi áo tôi đoán vì tôi không tỏ ra lo lắng. Họ chỉ hỏi tôi rằng tại sao con chó lại chỉ dừng lại bên tôi. Tôi nói các nhà sư có tình thương đối với mọi loài súc vật và có lẽ đó là cái mà con chó đánh hơi thấy; hay có thể trong kiếp trước, con chó này là một nhà sư. Sau đó họ để cho tôi đi qua.

Một lần khác tôi suýt bị đấm vào mặt bởi một anh chàng người Úc to cao lúc ấy đang nổi giận và hơi say. Sự không sợ hãi đã cứu nguy cho tình thế và cái mũi của tôi.

Chúng tôi vừa mới chuyển đến tu viện mới trong thành phố về phía bắc của Perth. Chúng tôi sắp sửa tổ chức một buổi lễ khánh thành, và có một điều ngạc nhiên thú vị là thống đốc bang Tây Úc lúc đó là Sir Gorden Reid cùng với phu nhân đã nhận lời mời của chúng tôi, hứa sẽ đến dự. Tôi được giao nhiệm vụ lo thuê rạp và ghế cho quan khách. Thầy trị sự dặn dò tôi phải kiếm cho được thứ tốt nhất và sắp xếp cho thật đàng hoàng.

Sau một hồi tìm kiếm tôi tìm ra một công ty cho thuê đồ rất đắt tiền. Nó ở trong khu ngoại ô giàu có phía tây của Perth và cho thuê rạp cho những bữa tiệc ngoài trời của các triệu phú. Tôi giải thích ý định và lý do vì sao phải thuê đồ tốt nhất. Người phụ nữ tiếp chúng tôi nói hiểu rồi, và thế là chúng tôi đặt hàng.

Khi rạp và ghế được chở đến vào chiều tối thứ sáu, thì tôi lại bận giúp đỡ người khác ở sân sau tu viện. Khi tôi ra trước để kiểm tra thì chiếc xe tải và nhân viên của họ đã đi rồi. Nhìn tình trạng của chiếc rạp tôi không thể tin vào mắt mình. Nó lấm lem đất đỏ. Tôi lấy làm thất vọng, nhưng vấn đề vẫn có thể được giải quyết. Chúng tôi bắt đầu lấy vòi nước xịt thật sạch. Rồi tôi kiểm tra ghế dành cho khách - chúng cũng dơ bẩn như thế. Thế là chúng tôi phải tìm giẻ và nhiều tình nguyện viên xúm vào giúp lau chùi. Tôi nhìn những ghế cho khách VIP. Chúng rất đặc biệt: không có ghế nào có chân bằng nhau! Ngồi lên là lắc lư, nghiêng ngã.

Thật không thể tin được. Như vậy là quá đáng. Tôi chạy đến điện thoại, gọi cho công ty cho thuê và gặp ngay người phụ nữ sắp sửa ra về để nghỉ cuối tuần. Tôi giải thích tình hình, và nhấn mạnh rằng không thể để ông thống đốc bang Tây Úc ngồi lắc lư trên một chiếc ghế gập ghềnh suốt buổi lễ như thế được. Lỡ ông ta ngã thì sao ? Bà ta nói hiểu rồi, xin lỗi, và hứa sẽ thay ghế trong vòng một tiếng đồng hồ.

Lần này thì tôi đứng chờ chiếc xe tải giao hàng. Tôi thấy nó chạy vào con đường dẫn đến tu viện. Chạy chưa được nửa đường, còn cách tu viện khoảng sáu mươi mét, một người đàn ông nhảy ào xuống và chạy đến phía tôi, mắt đỏ lừ và tay nắm lại.

“Tay phụ trách ở đâu ?” y la hét. “Tôi muốn gặp tay phụ trách ở đây.”

Sau này tôi mới biết chuyến giao hàng đầu tiên cho chúng tôi là chuyến giao hàng cuối cùng của họ trong tuần. Sau khi giao hàng, họ đã dọn dẹp và đi vào quán rượu để bắt đầu nghỉ cuối tuần. Họ đã uống khá nhiều rồi khi viên quản lý đi vào quán và ra lệnh cho họ quay về làm việc. Các nhà sư Phật giáo muốn họ đổi ghế.

Tôi bước đến gần anh chàng ấy và nói nhẹ nhàng, “Tôi là tay phụ trách đây, tôi có thể giúp gì được cho ông đây ?”

Y chồm mặt sát với mặt của tôi, bàn tay phải vẫn nắm chặt, đưa gần sát mũi của tôi. Mắt y ngầu đỏ vì giận dữ. Tôi ngửi thấy mùi bia trong miệng y nồng nặc xông ra, chỉ cách tôi vài xăng ti mét. Tôi không cảm thấy sợ hãi, cũng không tự kiêu. Tôi cứ thản nhiên.

Những đạo hữu dừng tay lau chùi để xem. Không ai chạy đến giúp tôi cả. Cám ơn các bạn.

Sự đối đầu xảy ra chỉ trong vài phút. Tôi cảm thấy rất thú vị về những gì xảy ra. Trước phản ứng của tôi, gã công nhân nóng giận này đờ người ra. Ắt hẳn y chờ đợi một thái độ sợ hãi hoặc gây hấn chống lại. Đầu óc y không biết phản ứng ra sao trước một người vẫn thản nhiên khi nắm đấm của y đã đưa lên gần lỗ mũi người đó. Tôi biết y không thể nào đấm tôi, cũng không thể bỏ tay xuống được. Thái độ không sợ hãi của tôi đã làm y bối rối.

Trong mấy phút đó, chiếc xe đã đỗ lại và người chủ bước xuống, đi về phía chúng tôi. Ông ta đặt tay lên vai của gã công nhân đang đứng ngẩn người và nói, “Nào, hãy bốc dỡ ghế xuống.” Mệnh lệnh này gỡ cho y ra khỏi tình trạng bế tắc.

Tôi nói, “Được rồi, tôi sẽ giúp một tay.” Và chúng tôi cùng nhau mang ghế xuống.

Nụ cười với hai ngón tay

Lời khen tiết kiệm được tiền bạc cho chúng ta, làm giàu có các mối quan hệ, và tạo ra niềm vui. Chúng ta cần ban phát cho xung quanh nhiều lời khen hơn nữa.

Người khó khen ngợi nhất là chính chúng ta. Tôi được dạy dỗ để tin rằng người nào tự khen mình sẽ trở thành tự cao tự đại. Không phải thế đâu. Họ trở thành người tốt bụng. Khen ngợi những phẩm chất tốt của mình cũng là tích cực cổ vũ những phẩm chất ấy.

Khi tôi còn là sinh viên, thiền sư đầu tiên của tôi đã cho tôi những lời khuyên rất thực tế. Thầy bắt đầu bằng cách hỏi tôi làm việc gì đầu tiên sau khi thức dậy.

Tôi trả lời, “Dạ đi vào phòng tắm.”

Thầy hỏi tiếp, “Trong phòng có gương soi không?”

“Dạ có.”

“Tốt.” Thầy nói, “Vậy thì, từ nay, mỗi buổi sáng trước khi đánh răng hãy nhìn vào gương và cười với mình.”

“Thưa thầy.” Tôi bắt đầu phản đối. “Con là một sinh viên. Đôi khi con đi ngủ rất khuya, và khi ngủ dậy người con rất uể oải, Có những buổi sáng con nhìn con trong gương còn thấy sợ, huống chi là mỉm cười.”

Thầy cười, rồi nhìn vào mắt tôi thầy nói, “Nếu con không cười được một nụ cười tự nhiên thì con đưa hai ngón tay trỏ vào hai khóe môi, chống lên như thế này.” Và thầy biểu diễn cho tôi xem.

Thầy trông hài hước không thể tưởng. Tôi bật cười. Thầy lệnh cho tôi phải làm. Và tôi làm theo.

Sáng hôm sau, tôi lê người ra khỏi giường và lảo đảo đi vào phòng tắm. Tôi nhìn tôi trong gương. “Ờ” Không được đẹp cho lắm. Một nụ cười tự nhiên là không thể được. Thế nên tôi đưa hai ngón trỏ vào hai khóe môi rồi đẩy lên. Tôi thấy một khuôn mặt ngốc nghếch đang làm một trò điên khùng và tôi không nín được cười. Khi có một nụ cười tự nhiên rồi tôi thấy một chàng thanh niên đang mỉm cười với mình. Và tôi cười lại. Chàng thanh niên trong gương tiếp tục mỉm cười. Thế là chúng tôi cùng cười phá lên.

Tôi tiếp tục thực tập mỉm cười trong suốt hai năm. Cứ mỗi buổi sáng dù tâm trạng thế nào khi bước ra khỏi giường thì chốc lát sau tôi đã mỉm cười với mình trong gương, thường thường là bằng cách dùng hai ngón tay. Những người xung quanh nói dạo này tôi hay cười. Có lẽ những cơ bắp xung quanh môi đã quen với tư thế ấy rồi.

Chúng ta có thể thực tập chiêu cười với hai ngón tay trỏ bất cứ lúc nào trong ngày. Nó đặc biệt có hiệu quả khi chúng ta cảm thấy chán ngán, nản chí, hay phiền muộn. Người ta đã chứng minh rằng tiếng cười làm tiết ra chất endorphin vào trong dòng máu của chúng ta, mà chất này lại làm tăng cường hệ miễn dịch và làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Nó giúp chúng ta nhìn thấy 998 viên gạch tốt trong bức tường của chúng ta, chứ không phải chỉ nhìn thấy hai viên gạch xấu. Và nụ cười làm cho chúng ta trông đẹp hơn.

Đó là lý do đôi lúc tôi gọi tu viện Phật giáo Perth là “Thẩm mỹ viện Ajahn Brahm”.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4934)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5075)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4090)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4688)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4150)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5046)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]