Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật Đã Chuẩn Bị Những Gì Trước Khi Đại Diệt Độ?

01/06/201321:38(Xem: 6608)
Đức Phật Đã Chuẩn Bị Những Gì Trước Khi Đại Diệt Độ?
phatdan-title

ĐỨC PHẬT ĐÃ CHUẨN BỊ NHỮNG GÌ
TRƯỚC KHI ĐẠI DIỆT ĐỘ?

Hoằng Quảng

happy-vesakTheo truyền thống Phật giáo Theravāda, Vesak là lễ kỷ niệm ba sự kiện trọng đại gắn liền với cuộc đời Đức Phật: ngày Đức Phật Đản sinh, ngày Đức Phật Thành đạo, và ngày Đức Phật nhập Niết-bàn. Chính vì kết hợp ba sự kiện quan trọng này nên lễ Vesak cũng được gọi là lễ Tam hợp. Tưởng niệm ngày Tam hợp, cũng là dịp nhắc nhở chúng ta về những lời dạy của bậc Đạo sư. Đối với người Phật tử, đón mừng Phật đản và tri ân Phật không gì có ý nghĩa hơn là áp dụng lời dạy, lời di huấn của Ngài vào trong đời sống tu học và hành đạo. Nhân mùa Phật đản Phật lịch 2557, trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài viết của tác giả Hoằng Quảng, xoay quanh sự kiện Đức Phật nhập diệt và những di huấn tha thiết sau cùng của Ngài, đối với hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia.

Đức Phật là bậc tự chủ hoàn toàn chuyện sống, chết. Việc muốn sống bao lâu hoặc ra đi vào thời điểm nào, Đức Phật đều có thể tự mình quyết định. Đó là sự thực được ghi nhận khi Đức Phật báo trước cho môn đệ và cả những thế lực chống đối về thời điểm Ngài sẽ viên tịch. Hơn đâu hết, với chân lý mà Ngài đã giác ngộ: Không có cái gì sinh mà không già, không chết(1), thì việc từ bỏ xác thân tứ đại cũng là một cách khẳng định và làm rõ thêm, về những quy luật căn bản mà Đức Phật đã dày công khám phá.

Có thể nói, kể từ thời điểm Ngài tuyên bố: Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành(không duy trì mạng sống lâu hơn nữa)(2), thì còn rất nhiều việc mà Đức Phật đã nghiêm cẩn chuẩn bị cho cuộc trở về vĩ đại của mình.

Qua việc khảo sát kinh Đại bát Niết-bàn, các bản kinh liên quan và các dịch phẩm tương đương trong Hán tạng, đã phát lộ những chi tiết quan trọng về việc Đức Phật đã chuẩn bị cho sự kiện Đại diệt độ. Trong số những chi tiết theo kinh văn, người viết chỉ tập trung vào bốn trọng tâm chính. Thứ nhất, kiện toàn tổ chức Tăng-già; thứ hai xác tín Kinh, Luật làm kim chỉ nam; thứ ba hiện thân cho lý tưởng phụng sự và cuối cùng là chỉ định cư sĩ phụ trách tang nghi.

Kiện toàn tổ chức Tăng-già

Sau những góp ý dành cho Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha, liên quan đến những giải pháp dành cho việc trị an quốc gia, thuật ngữ thường gọi là bảy pháp bất thối; nhân đó, Đức Phật đã thể hiện sự quan tâm sâu sát đến sự tồn tại và phát triển vững chãi của đoàn thể Tăng-già.

Ngài đã cho Tôn giả Ananda triệu tập Tăng chúng ở gần Rajagaha và chỉ dạy về những nguyên tắc cơ bản cho một sự ổn định và phát triển bền vững của tổ chức đoàn thể xuất gia. Theo thống kê, chỉ trong tụng phẩm thứ nhất của kinh Đại bát Niết-bàn,Đức Phật đã liệt kê có tới 35 pháp bất thối và sáu nguyên tắc căn bản cho sự hòa hợp của đoàn thể Tăng(3).

Trong 35 pháp bất thối và sáu nguyên tắc sống chung liên quan thâm thiết đến bản thể sinh mệnh của Tăng-già. Theo Đức Phật, bản thể sinh mệnh của Tăng-già là nội chứng, là thiền định, là giới luật. Sống tuân thủ theo học giới, tu tập Tứ niệm xứ, Thất giác chi, quán lý vô thường, vô ngã, bất tịnh và hư giả,… thì đoàn thể Tăng-già sẽ vững chãi về sinh mệnh. Nói cụ thể, nỗ lực chuyển hóa tự thân theo những phương thức mà Đức Phật đã chỉ dạy, là điều kiện căn bản nhằm góp phần vào việc kiện toàn tổ chức Tăng-già.

Bên cạnh đó, sức mạnh của Tăng chính là sức mạnh tổng hợp của các cá nhân sống trong đoàn thể. Muốn có được sức mạnh đó, cần phải tôn trọng những nguyên tắc sống chung. Sự cung kính, tôn trọng các bậc cao niên lạp trưởng, biết tàm, biết quý, không tụ họp và phiếm luận vô bổ, giữ gìn sáu phép hòa kính, sống với nhau hòa hợp như nước với sữa… là những nguyên tắc và chuẩn mực làm cho đoàn thể Tăng-già phát triển vững mạnh.

Sự quan tâm đến việc sống chung và những chuẩn mực ứng xử giữa các Tỳ-kheo như danh xưng, hình thức giao tiếp giữa người nhỏ với người lớn và ngược lại cũng được Đức Phật dạy bảo hết mực chi tiết(4). Không dừng lại ở đó, Đức Phật đã có những quan tâm với những cá thể đặc thù trong tổ chức Tăng-già. Việc tìm cách chuyển hóa Tỳ-kheo Channa phạm lỗi(5)vào thời khắc cuối của đời sống, là một minh chứng sống động của Đức Phật, đối với sự ổn định, đoàn kết và phát triển của Tăng chúng.

Từ hiện thực các chúng đệ tử của giáo phái Nigantha Nathaputta không biết tôn trọng lẫn nhau, đấu tranh và tàn hại lẫn nhau sau khi giáo chủ viên tịch ở Pava, cách Kusinagar khoảng 15km về phía Đông, được ghi lại trong kinh Phúng tụng(6), kinh Thanh tịnh(7), đã làm cho vấn đề kiện toàn tổ chức Tăng-già trở thành một trong những vấn đề quan trọng và bức thiết. Bảy pháp bất thối được liên tục triển khai trên năm phương diện, cộng với sáu phép hòa kính, là một trong những cơ sở biện minh cho quan điểm này.

Xác tín Kinh, Luật làm kim chỉ nam

Sau khi Đức Phật diệt độ, thì Tăng chúng phải nương tựa vào ai và ai là người lãnh đạo Tăng-già? Đây không những là băn khoăn của riêng ngài Ananda mà dường như của hầu hết những đệ tử Phật. Đức Phật đã xóa tan nghi vấn đó bằng sự khẳng định mạnh mẽ: Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác(8). Không những thế, trong những lời cuối cùng, Đức Phật đã trở lại sự khẳng định này: Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là đạo sư của các ngươi(9).

Lời dạy của Đức Phật đã rất mực rõ ràng khi xác tín giáo pháp là kim chỉ nam, là chỗ y cứ cho mọi phương châm và hành động của chúng đệ tử Phật về sau. Thế nhưng, một thực tế được đặt ra là ở thời Phật, kinh điển chưa được ghi lại bằng văn bản, thế nên dễ xảy ra tình trạng bất cập về nội dung. Ở đây, vấn đề làm cách nào để xác tín những lời dạy hoặc truyền tụng do chính Đức Phật thuyết, cũng là một vấn đề quan trọng, được Đức Phật thuận thứ chỉ bày.

Theo Đức Phật, cơ sở để phân biệt đâu là lời dạy chân thực của Đức Phật cần phải tham chiếu vào hai yếu tố, đó là Kinh và Luật.

Theo kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật đã dẫn ra bốn trường hợp liên quan đến việc xác tín tính chân thực của kinh văn(10). Trong tất cả bốn trường hợp, dù tự nhận rằng chính bản thân được nghe từ kim khẩu của Đức Thế Tôn hoặc được nghe từ chính một vị Tỳ-kheo hay nhiều vị Thượng tọa có thẩm quyền về kinh điển… thì cũng không nên vội vã khẳng định rằng, đó là kinh văn do Phật thuyết. Theo Đức Phật, cần phải dựa vào Kinh và Luật mới có thể minh định đó có phải là lời dạy của Đức Phật hay không. Đây cũng là ưu tư mà trước đó Đức Phật đã dạy cho dân chúng Kalama trong bài kinh Các vị ở Kesaputta(11).

Cùng liên quan đến việc kiện toàn cơ sở Kinh, Luật, do vì bị đau lưng nên Đức Phật chỉ định Tôn giả Sariputta thay Ngài tóm tắt lại những điểm chính của giáo pháp. Đáng chú ý, trước khi bắt đầu bài pháp, Tôn giả Sariputta cũng dẫn lại câu chuyện về sự tranh cãi của môn đệ sau khi Giáo chủ Nigantha Nathaputta từ trần. Sự cấp thiết của vấn đề đã được Tôn giả Sariputta trình bày thống thiết: Này các Hiền giả, pháp này được Thế Tôn khéo giảng dạy, khéo trình bày, một Chánh pháp có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh đẳng giác trình bày. Ở đây, tất cả mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không cãi cọ nhau, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người(12).

Có một điều đáng lưu ý, vì trước đó khá lâu, trong đô thị Campa, Tôn giả Sariputta đã thuyết cho chúng Tỳ-kheo bài thuyết giảng với mười pháp số tương tự qua bài kinh Thập thượng(13). Trong lần này, với những nội dung căn bản, sâu sắc, cô động, bài thuyết giảng của Tôn giả Sariputta có thể được xem là cuộc kiết tập kinh điển đầu tiên khi Phật còn tại thế.

Hiện thân cho lý tưởng phụng sự

Kể từ khi chứng đạo, Đức Phật đã dành trọn thời gian còn lại của đời mình chỉ với một mục đích duy nhất: giáo hóa chúng sanh nhận ra chân lý mà Ngài đã giác ngộ. Xúc động hơn cả, trong những chặng cuối và đêm cuối của hành trình, bàng bạc trên mỗi dấu chân của Ngài vẫn chất ngất chí nguyện độ sanh.

Trong câu chuyện về bữa cơm cuối cùng ở Pava do chàng thợ rèn Cunda hiến cúng, là khúc ca bi tráng về chí nguyện độ sanh của Đức Thế Tôn(14). Theo kinh văn, Cunda cúng dường Đức Thế Tôn một bữa cơm với thức ăn tinh túy và tốt nhất trong điều kiện khả dĩ của mình. Kinh Trường bộghi rằng, đó là món Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ). Điều cực kỳ bất hạnh là bữa ăn đó không phù hợp với thể trạng hiện tại của Đức Thế Tôn, nói chính xác hơn là thức ăn vô tình bị nhiễm độc, nhưng Cunda không nhận ra. Với lòng chí thành của Cunda, Đức Thế Tôn hoan hỷ thọ dụng, và để phòng hộ cho mọi người, Đức Phật đã nhỏ nhẹ bảo Cunda chôn ngay món ăn mộc nhĩ còn lại, vì không một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai(15).

Cần phải thấy, với luận điểm: các Đức Như Lai nhập Vô dư Niết-bàn không có sự hãm hại(16), do vậy, mọi sự tác động của các yếu tố bên ngoài đều không ảnh hưởng đến thọ mạng của Đức Thế Tôn. Mặc dù vậy, với trách nhiệm của một bậc Thầy tối thượng, Đức Phật e rằng, sau khi Ngài viên tịch, thợ rèn Cunda sẽ mãi hối hận về bữa cơm cúng dường, xem đó là một trong những nguyên do làm cho Thế Tôn sớm viên tịch, nên Ngài đã căn dặn Tôn giả Anan: Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác.

Có thể nói, mặc dù biết rõ thức ăn có độc, thế nhưng vì muốn lợi lạc hữu tình, cụ thể là đem lại phước quả lớn cho thợ rèn Cunda, Đức Thế Tôn đã không ngại ngần thọ dụng bữa ăn cuối. Hình ảnh bữa ăn cuối cùng của Đức Phật có nhiều nét tương đồng như ly thuốc độc mà nhà hiền triết Socrate (469-399) đã ung dung uống cạn, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho con người và mọi loài.

Cũng trong đêm trước khi Đại diệt độ, với lòng chí thành của du sĩ ngoại đạo Subhadda, Đức Phật đã cho thuận thứ thuyết giảng, ông ta đã phát nguyện xuất gia, thọ cụ túc giới và không bao lâu, đắc quả A-la-hán. Sự hóa độ du sĩ Subhadda trong đêm Đại diệt độ, Đức Thế Tôn đã hiện thân cho lý tưởng độ sanh không mệt mỏi, dù đó là phút cuối của đời mình.

Chỉ định cư sĩ đảm tráchtang nghi

Với Đức Phật, thân thể chỉ là sự hòa hợp của tứ đại. Sau khi Đức Phật nhập Vô dư Niết-bàn thì thân tứ đại dù được kết tinh thành xá-lợi thì cũng theo quy luật tụ, tán cùng thời gian. Do đó, Ngài đã chọn phương thức hỏa táng và chỉ định cho hàng cư sĩ phụ trách tang nghi.

Trước trăn trở của ngài Ananda về hình thức tang nghi và ai là người đứng ra chủ trì sự kiện quan trọng này, Đức Phật đã trang nghiêm phân định: Này Ananda, các ngươi đừng có lo lắng vấn đề cung kính thân xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các người hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng về tự độ. Này Ananda, có những học giả Sát-đế-lỵ, những học giả Bà-la-môn, những học giả gia chủ thâm tín Như Lai, những vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như Lai(17).

Đây là di huấn quan trọng, có ý nghĩa tham khảo đối với mọi vấn đề liên quan đến việc hậu sự của người xuất gia, bất kể thời đại nào. Mặc dù có mặt trong khoảng thời gian diễn ra tang lễ, thế nhưng cả ba đại đệ tử của Đức Phật như Tôn giả Maha Kassapa, Tôn giả Anurudha và Tôn giả Ananda vẫn đứng ngoài mọi diễn biến tang lễ. Nếu có đóng góp chăng, thì chỉ riêng Tôn giả Maha Kassapa châm lửa vào đài hỏa táng kim thân của Đức Từ Phụ. Ngay sau khi Đức Phật vừa diệt độ, trong phần đêm còn lại, ngồi hầu bên di thể của Đức Thế Tôn, Tôn giả Ananda và Anurudha an tịnh bàn luận Chánh pháp và chờ trời sáng, để vào thành Kusinagar thông báo cho dân chúng Mala.

Sau khi được Tôn giả Ananda thông báo, các vị cư sĩ ở Mala đã đứng ra lo tang lễ của Đức Phật và họ đã làm những gì cần làm theo di huấn. Đặc biệt, vị cư sĩ tại gia có ảnh hưởng quyết định trong tang lễ của Đức Phật là Bà-la-môn Dona(18). Chính bản thân vị Bà-la-môn này đã ngăn ngừa một cuộc xung đột giữa tám nước, khi các nước muốn phụng thỉnh một phần xá-lợi của Đức Thế Tôn về xây tháp tôn thờ. Một vị Bà-la-môn, không phải là người xuất gia, đứng ra phân chia xá-lợi của Đức Phật và có khả năng thuyết phục cả tám nước, thì tất có một nhân thân vững chãi, đặc thù.

Đọc kỹ lại kinh văn, nhân thân của Bà-la-môn Dona hiện rõ dần. Trước hết, đó là vị Bà-la-môn phát hiện dấu chân rất lạ và dõi theo chúng, để cuối cùng diện kiến Đức Phật trên con đường giữa Ukkatthà và Setabbya. Từ cuộc hội kiến, Bà-la-môn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và cuối cùng nhận ra người đang đàm thoại chính là một vị Phật(19). Từ nhân duyên gặp Phật ban đầu, Bà-la-môn Dona từng bước hâm mộ Phật pháp. Trong cuộc tham vấn về năm hạng Bà-la-môn, ngài Dona đã xin quy y với Đức Thế Tôn và chính thức trở thành một vị cư sĩ tại gia thâm tín Tam bảo(20). Được biết, đã có một bảo tháp được xây dựng để tôn thờ cái bát mà Bà-la-môn Dona dùng để phân chia xá-lợi Đức Phật. Ngài Huyền Trang có xác nhận trong nhật ký của mình và theo ngành du lịch Ấn Độ, bảo tháp này vẫn hiện còn tại một địa điểm gần Kusinagar(21).

Như vậy, mặc dù tang nghi Đức Phật chỉ định do hàng cư sĩ phụ trách, thế nhưng, căn cứ vào tư liệu kinh văn đã xác tín, đó là hạng cư sĩ vững chãi, thâm tín Tam bảo, mới đủ phước, đủ duyên thực hiện thiện hạnh rất mực quan trọng này.

Thay lời kết hay vài suy nghĩ về hậu sự của người xuất gia

Trong thời Đức Phật, các vị xuất gia lấy việc tu tập, thú hướng giải thoát, xem đó là việc chính yếu và không quá chú trọng về các thể thức tang nghi. Theo kinh điển ghi lại, đã có vài vị Tỳ-kheo bị rơi xuống núi tử nạn, bị rắn cắn chết, bị mạng vong do bệnh tật và tang lễ được tổ chức rất mực giản đơn. Ngay như cao đệ của Đức Phật là Tôn giả Sariputta, tang lễ của ngài diễn ra đơn giản, chỉ có vài vị xuất gia bên cạnh và sau đó, Sa-di Cunda hỏa thiêu xác thân, thu lấy xá lợi bỏ vào bình bát và trở về cáo bạch cùng Đức Thế Tôn(22).

Học theo sự giản đơn về tang nghi của tiền nhân, trong di ngôn của Huyền Tráng, ngài mong muốn chỉ được bó chiếu chôn(23). Gần hơn, Pháp sư Thánh Nghiêm cũng chọn hỏa táng và tro cốt còn lại đem rải trong rừng cho cây cối tốt tươi(24). Ở Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, cũng có nhiều bậc cao tăng thể hiện sự giản đơn nhất định, trong việc lo hậu sự của mình.

Đành rằng, tùy theo không gian văn hóa mà ở mỗi quốc gia, khu vực có những cách thức xử lý đối với di thể người đã khuất. Trong những táng thức đặc thù của từng khu vực, thì riêng đối với người xuất gia, việc gia tăng sự tu tập của bản thân, hầu lấy đó làm công đức yểm trợ cho người vừa khuất, tối giản đến mức có thể các thể thức tang nghi… là những lựa chọn gần giống với những điều mà bậc Thầy của mình đã làm, từ hàng ngàn năm trước.

Chú thích

(1) Kinh Tương ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương 3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Vua.

(2)Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn,số 16, tụng phẩm III, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.309.

(3)Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm I, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.280-284.

(4)Kinh đã dẫn,tr.337. Nguyên văn: Này Ananda, nay các vị Tỳ-kheo xưng hô với nhau là Hiền giả. Sau khi Ta diệt độ, chớ có xưng hô như vậy. Này Ananda, vị Tỳ-kheo niên lão hãy gọi vị Tỳ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả. Vị Tỳ-kheo niên thiếu, hãy gọi vị Tỳ-kheo niên lão là Thượng tọa (Bhante) hay Đại đức.

(5)Kinh đã dẫn, tr.338.

(6)Kinh Trường bộ, kinh Phúng tụng, số 33, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.645.

(7)Kinh Trường bộ, kinh Thanh tịnh, số 29, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.571.

(8)Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn,số 16, Tụng phẩm II, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.298-299.

(9)Kinh đã dẫn, Tụng phẩm VI., tr.337.

(10)Kinh đã dẫn,Tụng phẩm IV, tr.315-316.

(11)Kinh Tăng chi, chương 3, phẩm Lớn, kinh Các vị ở Kesaputta, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.336.

(12)Kinh Trường bộ, kinh Phúng tụng, số 33, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.647.

(13)Kinh Trường bộ, kinh Thập thượng,NXB. Tôn giáo, 2013, tr.691.

(14)Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm IV. NXB. Tôn giáo, 2013, tr.317-319.

(15)Kinh đã dẫn,Tụng phẩm IV, tr.318.

(16)Cullavagga,chương Chia rẽ hội chúng, Việc làm Như Lai chảy máu của Devadatta, đoạn 372.

(17)Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm V NXB. Tôn giáo, 2013, tr.329.

(18)Trong Hán tạng, kinh Trường A Hàm thì gọi là Bà-la-môn Hương Tánh; kinh Đại bát Niết-bàn, quyển 42, thì gọi là Bà-la-môn Tánh Yên; kinhĐại bát Niết-bàn, quyển Hạ, do ngài Pháp Hiển dịch thì gọi là Bà-la-môn Đồ Lô Na (徒盧那).

(19)Kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Bánh xe, kinh Tùy chuyển thế giới.

(20)Kinh Tăng chi, chương Năm pháp, phẩm Bà-la-môn, kinh Bà-la-môn Dona. Các bản kinh Bắc truyền liên quan đều xác tín, vị Bà-la-môn này thâm tín Tam bảo.

(21)http://www.buddhanet.net/e-learning/pilgrim/pg_04.htm

(22)Samyutt Nikaya: The grouped discourses, Satipatthana-Samyutta -The Four Frames of Reference (Foundations of Mindfulness) ; SN 47.13: Cunda Sutta - About Cunda. (Source:http://www.accesstoinsight.org).

(23)Theo, Hòa thượng Thích Minh Châu, Huyền Trang- nhà chiêm báivà học giả, theo di chúc của Pháp sư Huyền Trang, di thể ngài được phụng táng trong một cái hòm tre giản đơn.

(24)Thánh Nghiêm tự truyện,Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010, tr.399-342.

Hoằng Quảng
(Nguyệt san Giác Ngộ)

Mục Lục
Tuyển Tập Kính Mừng Phật Đản

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2022(Xem: 2181)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & các làng ven quốc lộ từ Bodhgaya đi Varanasi, tiểu bang Bihar India .
10/12/2022(Xem: 4214)
Kính chia sẻ cùng chư Tôn Đức, chư pháp lữ, và quí thiện hữu một số hình ảnh trong mùa Tipitaka (Đại Tạng Kinh PaLi) khai hội tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là lần thứ 17 trùng tụng Tipitaka theo thông lệ hàng năm. Lễ hội quan trọng năm 2022 này do Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức nên tất cả mọi trần thiết, trang hoàng đều do Ban tổ chức Hội trùng tụng Kinh tạng Pali VN thực hiện, nổi bật nhất là cổng chào với hình ảnh hoa tươi rực rỡ “Lưỡng Long chầu Pháp Luân” rất đẹp mắt, khiến ai ai cũng trầm trồ ngợi khen và tán dương công đức. Lễ hội trùng tụng Tipitaka năm nay có các nước Phật Giáo tham gia trùng tụng Đại Tạng như: Nepal, Sri-Lanka, Lao, Campuchia, ThaiLand, Myanmar, Việt Nam, Bangladesh, India, International...Chương trình được khai mạc trang trọng vào ngày 2 tháng 12 cho đến ngày 12/12/2022 là bế mạc, với gần 5000 người tham dự . Nguyện cầu tiếng kinh này vang vọng đến ba ngàn thế giới khiến chúng sanh vạn loài thảy đều nghe ba nghiệp từ đó được thanh tịnh. Và xin nguyện
03/12/2022(Xem: 1381)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 1702)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 4118)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 2755)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 1575)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 2994)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 3573)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 2604)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567