Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC

10/10/201022:24(Xem: 7983)
ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC

ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH
SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC
Thích Phước Đạt

Giữa cơn lốc biến động xã hội đầy kịch tính của cuối thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của con người đối với các vấn đề khủng hoảng sinh thái tâm linh và môi trường, mùa Phật lại trở về như nguồn suối hạnh phúc chảy vào tâm thức mọi người.

Thật ra, đấng Thế Tôn không phải Đản sanh trong vườn Lâm Tỳ Ni xứ Ấn Độ cách đây 2500 năm về trước, mà đức Phật thị hiện trong lòng chúng ta từng giờ, từng giây phút, mỗi ngày. Bởi vì chúng ta là những người sinh ra, lớn lên, trưởng thành theo lý tưởng sống với Ngài, cùng đi chung với Ngài về lộ trình giải thoát mọi sự khổ đau đang đè nặng lên thân phận kiếp người. Nếu văn hào Shakespeare khởi đầu bằng tiếng nói con tim: "Yêu và được yêu là điều hạnh phúc nhất đời", thì đức Phật tuyên bố sự hiện hữu của Ngài giữa cuộc đời với mục đích: "Ta ra đời vì an lạc, lợi ích cho chư Thiên và loài người, vì lòng thương tưởng đời". Do đó, nơi nào có sự Đản sanh của đức Phật, nơi đó có tiếng nói yêu thương, tiếng nói tình người thể hiện. Như con tim nắm giữ sinh mệnh của một đời người, thì tình người nắm giữ sinh mệnh sự sống, linh hồn văn hóa của dân tộc, quốc gia. Cho nên, sự kiện đức Phật đản sanh là dự kiện khởi đầu thông điệp tình thương và hạnh phúc:

"Khó gặp được Như Lai
Không phải đâu cũng có
Chỗ nào đức Phật đản sanh
Nơi đó tất an lạc" (Pháp Cú 193)

Thông điệp ấy đã đi vào tâm thức mỗi người, khi cánh cửa "giải thoát" bắt đầu mở sau khi 49 ngày đêm tư duy thiền định dưới cột Bồ đề, Ngài trở thành bậc Chánh đẳng giác. Từ đây, Ngài tuyên bố: "Cửa vô sinh bất diệt, đã mở cho tất cả chúng sanh. Hãy để cho ai có tai muốn nghe được hưởng trọn niềm tin tưởng". Như vậy, đạo Phật là đạo đến mà thấy, thấy sự thật khổ đau cuộc đời và con đường đoạn tận khổ đau được khởi đầu bằng những bước chân đầu tiên:

"Ai quy y đức Phật
Chánh pháp và chư Tăng
Ai dùng Chánh tri kiến
Thấy được bốn Thánh đế
Thấy khổ và khổ tập
Thấy sự khổ vượt qua
Thấy đường Thánh tám ngành
Đưa đến khổ não tận" (Pháp Cú 190-191)

Đây chính hiện thực của cuộc đời mà tự thân mỗi người phải vượt qua lộ trình đi về "Tự ngã" giữa sa mạc hoang vu từ trong tâm tưởng của cái "Tôi" tràn đầy. Những danh tướng hão huyền hư vô phân biệt, nghĩa vô nghĩa, những danh sắc, vật chất, tiền tài trói buộc cần được phá vỡ bằng con đường khởi đầu bằng sự tu tập theo giáo lý của Ngài. Chúng ta nên biết rằng những sở hữu mà chúng ta nắm giữ là không phải của chính mình, phải nên biết rằng những cái mà chúng ta đang nắm giữ chỉ đến với chúng ta khi duyên đến và mất đi khi duyên tan. Chính đức Phật từng tuyên bố: "Cái này không phải là ta, của ta, và tự ngã của ta". Từ trong thực tánh duyên khởi đi ra, nhờ công phu tu tập cá nhân, Ngài đã trở thành bậc giác ngộ hoàn toàn. Chúng ta cũng là con người, nếu biết nương vào đức Phật, nương vào chánh pháp để tu tập thì cũng trở thành những con người giác ngộ như Ngài. Bởi vì con người là chủ nhân ông của mỗi người, tự thân giải quyết sự hạnh phúc an lạc cho chính mình, không ai có thể thay thế được. Chính đức Phật từng khuyến cáo các đệ tử của mình:

"Tự mình điều ác làm
Tự mình làm nhiễm ô
Tự mình ác không làm
Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh, không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai" (Pháp Cú 165)

Tại đây, đức Phật đã khẳng định vai trò và vị trí của con người là do tự thân cá nhân quyết định. Trong tất cả giá trị có mặt ở đời, con người là giá trị cao nhất. Mọi thứ giá trị đều là phương tiện cho con người và cuộc sống của con người. Vấn đề lý tưởng tối cao và ý nghĩa cuộc sống thực chất là vấn đề hạnh phúc. Hạnh phúc thực sự có mặt khi tự thân mỗi người phải vắng mặt cội nguồn tham sân si, xuất phát từ lòng tham dục, như đức Phật dạy:

"Từ tham dục nảy mầm đau khổ
Từ tham dục nảy mầm sợ hãi
Với ai thoát khỏi vòng tham dục
Thì không còn đau khổ, không còn sợ hãi" (Pháp Cú 215-216)

Kinh nghiệm tự thân tu tập của đức Phật, chúng ta thấy rõ điều này. Từ một Thái tử Tất Đạt Đa sống trong cung vàng điện ngọc, Ngài xả bỏ tất cả để lên đường tu tập 6 năm khổ hạnh. Từ bỏ lối tu khổ hạnh, tu tập thiền định phát triển trí tuệ, Ngài đã trở thành bậc Chánh đẳng giác, giác ngộ hoàn toàn. Trong 45 năm thuyết pháp độ sanh, Ngài từng tuyên bố: "Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống hồ là phi pháp". Đây chính là thái độ xả ly hoàn toàn mà mỗi chúng ta cần phải đi qua trên con đường trở về tự tánh giác ngộ. Thực chất của khổ đau đều bắt nguồn từ sự khát ái, chấp thủ. Vô minh phiền não, quá khứ u buồn vang vọng từ cõi lòng sầu bi khổ ưu não được dập tắt, khi tự thân mỗi người hướng tới sự tu tập tâm thức và hành trì pháp như Ngài:

"Những ai hành trì pháp
Theo chánh pháp thực hành
Sẽ đến bờ bên kia
Vượt ma lực khó thoát" (Pháp Cú 86)

Cho nên, vấn đề hạnh phúc được thực thi bắt nguồn từ sự chuyển hóa tâm thức để đạt sự bình an nội tại. Tại đây, xu thế nội tại từ trong tâm tưởng đòi hỏi phải lớn lên, phát triển, mở rộng, vì mỗi tâm hồn đều có khả năng linh diệu để chuyển hóa, vận hành. Đức Phật từ một con người thực tại, nhờ công phu tu tập chuyển hóa nội tâm mà trở thành con người sống trong thế giới hạnh phúc thực sự, bởi vì Ngài đã tự chuyển hóa nội tâm của mình:

"Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình" (Pháp Cú 2)

Rõ ràng, hạnh phúc mà con người hướng đến không phải là điều gì nằm ngoài tầm tay con người. Hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức tánh của con người, thông qua sự tu tập về thân khẩu ý:

"Không làm các điều ác
Thành tựu các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Đó là lời Phật dạy" (Pháp Cú 186)

Đây cũng chính là con đường tu tập theo Giới-Định-Huệ, hướng tới những giá trị hạnh phúc đích thực giữa cuộc đời. Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành, xa rời sự chấp thủ và khát ái. Một chân trời tự do mở ra cho những ai còn khát vọng về hạnh phúc, giải thoát mọi khổ đau cuộc đời. Nơi đây, từ trái tim đến trái tim trong suối nguồn giáo lý đức Từ phụ thấm nhuần từng cõi lòng mọi người. Thật đúng là:

"Hạnh phúc thay, đức Phật giáng sinh
Hạnh phúc thay, giáo pháp cao minh
Hạnh phúc thay, chúng Tăng hòa hợp
Hạnh phúc thay, tứ chúng đồng tu". (Pháp Cú 194)

Thích Phước Đạt
Sài Gòn, mùa Phật Đản 2541

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/11/2014(Xem: 7328)
Trong đời sống chúng ta thấy một số người có những quan niệm rất ngộ nghĩnh, hay kỳ quặc. Nhiều người trong họ là những người có ăn học, trí thức nhưng họ lại tin vào những điều huyền hoặc, không tưởng. Như có người tin rằng các loài khủng long bị diệt chủng là do các nhà khoa học chế tạo ra, chứ không có thật.
02/11/2014(Xem: 6561)
Đêm hôm đó là một đêm trời mưa. Mưa dai ẳng như tình quê xứ Huế, nhưng không phải Huế. Mưa đang rơi trong trời đêm Thụy Sĩ. Càng về khuya, mưa rơi càng nặng hạt. Vạn vật im lìm đứng lặng trong đêm. Thời gian nhẹ trôi. Không gian yên vắng. Tất cả đang chìm vào tĩnh mịch giữa đêm khuya. Mọi nhà hàng xóm đều tắt đèn yên nghỉ. Không còn một tiếng động dù nhỏ nào, ngoài tiếng mưa rơi rả rích lẫn với tiếng tâm tình rù rì của anh em Gia Đình Phật Tử Trí Thủ chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trên căn gác xếp nhà anh Khá.
31/10/2014(Xem: 7034)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 8137)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 7884)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7312)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7691)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9225)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14403)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8321)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]