Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có tiếng nhưng không có miếng

07/03/201306:27(Xem: 7157)
Có tiếng nhưng không có miếng

Co tieng


Ở đời, chúng ta thường thấy có người bên ngoài dáng vẻ giàu sang, thành công, đi xe sang trọng, nhà ở thật đẹp. Nhưng trên thực tế, họ rất chật vật trong đời sống hàng ngày. 

Tôi có một anh bạn quen, sang Mỹ chỉ mới hơn 5 năm mà đi xe hiệu BMW và ở nhà trong khu đắt tiền, cao cấp, lên đến bạc triệu. Hỏi ra thì anh chỉ cười buồn và than rằng lúc nào cũng bận rộn, không có thời gian rảnh. Sau này mới biết rằng anh làm 3 việc (job) cùng một lúc để có thể xoay xở trả cho căn nhà sang trọng và chiếc xe đắt tiền kia. 

Bề ngoài trông anh giàu có, nhưng bên trong anh thật sự túng thiếu quanh năm. Chắc bạn cũng muốn biết tại sao họ phải làm vậy? Mình có cơm ăn cơm, có muối thì ăn muối, có sao đâu! Mặc cảm nghèo nàn, thua thiệt đóng một vai trò quan trọng trong trường hợp này. 
Hình như chúng ta khoe khoang sự giàu sang, thành đạt của mình để tìm kiếm một lời khen thưởng, một sự thán phục từ bên ngoài. 
 
Nghĩa là, mình làm cật lực, nhọc mệt cả đời để đổi lại những ganh tức, bực bội của người bên ngoài vì họ không có những thứ mình đang hưởng thụ. Chạy theo danh vọng, tiền tài thì chẳng phải là điều gì mới mẻ!  Hầu như đa số cho rằng đó chính là mục đích sống của mình, dù phần lớn không ai muốn nói ra vì sợ bị chê là thiển cận, tham lam.

Dù biết là thế, nhưng ai cũng cứ cho là ‘hữu danh thì hữu thực’ nên mọi người cứ bon chen, bươn chải tìm kiếm vật dục, giàu sang bên ngoài. Có người dù đời sống trong gia đình thật là nhọc nhằn, vất vả nhưng vẫn cứ chạy theo đua đòi vẻ bề ngoài, và tìm mọi cách che giấu cái khổ đau, nhọc mệt mà mình và gia đình đang gánh chịu. Giống như một người nghiện rượu, dù biết rằng thói hư, tật xấu này sẽ chỉ mang lại niềm vui tạm bợ, và sẽ dìm mình xuống hố khổ đau về sau, nhưng vẫn tìm cách biện hộ, bào chữa rằng là mình chỉ uống cho vui, để giải sầu. Rồi đến một hôm, bừng tỉnh nhìn lại, người ấy mới thấy mình thực là ‘hữu danh, vô thực’.

Nếu bạn đi hỏi thử 100 người ngoài đường, ai cũng nói họ cần tiền, cần danh lợi vì những thứ này sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Có ai đó nói rằng: sống đời xứng đáng, có hạnh phúc không thể đo lường bằng tiếng tăm, tiền tài, hay vật chất mà bằng hạnh phúc, yêu thương mình trao đổi trong đời. Đó là nói về mặt vật chất. Phần tâm linh, cũng không ngoại lệ. 

Có người tu tập nhưng chỉ chuộng dáng vẻ bề ngoài nên thỉnh thoảng có người cười nhạo bằng câu: ‘Đường đường tăng tướng, dung mạo khả nghi!’ Dù biết rằng ‘chiếc áo không làm nên thầy tu’ nhưng với vẻ ngoài đạo mạo họ lầm tưởng rằng làm vậy sẽ được mọi người nể trọng.

Thực ra, Đức Phật không ngăn cấm việc làm giàu và cầu danh nếu những thứ này thực sự mang lại hạnh phúc, an lạc cho mình, và cho người. Như trong kinh Pháp hoa, phẩm Tựa thứ nhất:  Ngài Văn Thù nói rằng ngài Di Lặc trước kia là Cầu Danh Bồ-tát nhưng vẫn giữ trọn công hạnh Bồ-tát lợi mình, lợi người, và sau cùng, vẫn thành Phật. Vả lại, những trưởng giả giàu có trong thời Đức Phật tại thế, như ông Cấp Cô Độc, đã đóng góp, cúng dường, xây dựng tịnh xá cho chư Tăng. 
 
Nhờ vậy mà Phật pháp được tuyên dương, hưng thịnh. Công lao của các vị đại thí chủ này thật là đáng tán dương và vô cùng to lớn về mặt góp phần tạo dựng, phát huy, và duy trì văn hóa Phật giáo ở Ấn Độ thời đó. 
Phải nói rằng, nếu không có những đại thí chủ giàu có như vậy đóng góp thì việc phát triển Phật pháp khó khăn hơn nhiều!

Chúng ta không phải khao khát thành danh để được mọi người ca tụng, khen tặng. Chúng ta cũng không khao khát xem mình là một người ‘làm cái gì cũng được, cũng thành công’. Sở dĩ mình không khao khát được vậy vì mình hiểu rằng những cái mình mong mỏi đó sẽ khó mà mang lại hạnh phúc, an lạc bền lâu cho chính bản thân mình. 
 
Khi mình đánh giá bản thân qua những việc mình làm, giá trị hay không giá trị, mình đang phụng sự cho cái bản ngã của chính mình. Mình sẽ không bao giờ thỏa mãn sự đòi hỏi của bản ngã. Ngược lại, rất là đau khổ khi mình nếm mùi thất bại. Giá trị thật không phải ở chỗ mình thành công được cái gì, mà là mình có đang thật sự sống và cảm nhận sự thành công đó, hay ngay như cả thất bại, của chính mình. 

Trong kinh Trung bộ (kinh Thí dụ lõi cây), Phật dạy rằng: ‘Mục đích chính của đời sống phạm hạnh là tâm giải thoát bất động, đối với mục đích này thì tất cả những lợi lạc khác chỉ là cặn bã’ (Ni sư Trí Hải tóm lược). Như vậy, muốn sống thật với tâm giải thoát bất động mình phải hiểu rõ mình là ai, và sẽ không để bị tám ngọn gió đời (bát phong), lợi suy, vui khổ, vinh nhục và khen chê làm rúng động. Tình thực mà nói để tâm không bị tám ngọn gió đời lay chuyển là một điều rất khó làm! 
 
Như trong trường hợp của thi hào Tô Đông Pha (1037-1101) gởi tặng cho Thiền sư Phật Ấn (1032-1098), một bài thơ ông sáng tác: 

Thân tâm cúi lạy đấng Chí Tôn 
Hào quang tỏa sáng khắp càn khôn 
Tám ngọn gió đời lay chẳng động 
Thân tọa đài sen nét nghiêm trang. 

Sau khi làm xong bài thơ này, Tô Đông Pha rất hài lòng bèn cho người đem tặng Thiền sư Phật Ấn đang ở chùa Kim Sơn. Sau khi Thiền sư Phật Ấn xem qua bài thơ, bèn lấy bút phê vào hai chữ ‘’phóng thí’’ (có nghĩa là đánh rắm) và gởi lại cho Tô Đông Pha. Nhận thấy lời phê của Thiền sư Phật Ấn, Tô Đông Pha đùng đùng nổi giận vội bươn bả vượt sông sang chùa Kim Sơn để bắt tội Thiền sư Phật Ấn. 

Gặp nhau ở bến sông, Tô Đông Pha lớn tiếng trách: 

- Bài thơ tôi sai sót ở chỗ nào mà ông phê vào hai chữ “đánh rắm” kia. 

Thiền sư Phật Ấn cười xòa: 

- Ông nói “Tám gió thổi không động” mà chỉ cần một cái “đánh rắm” thôi đã bay sang sông rồi. 

Đến lúc ấy, Tô Đông Pha mới hiểu rằng tâm mình rõ ràng chưa bất động. Cho nên Thiền sư Hoàng Bá có dạy: 
 
Nếu không một phen sương thấm lạnh. 
Hoa mai đâu nở ngát hương thơm. 

Ông bà mình cũng có câu: ‘Có thực mới vực được đạo’. Nên nếu chỉ hiểu nghĩa của đạo thì vẫn chưa đủ. Phải biết sống với đạo thì mới có thể ‘vực được’ đạo! Trong kinh Tăng chi bộ (kinh Tùy chuyển thế giới, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật có dạy cách sống đạo như sau: ‘Đây là đặc thù, này các Tỷ-kheo, đây là thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp.

Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng,
Chỉ trích và tán thán,
An lạc và đau khổ,
Những pháp này vô thường,
Không thường hằng, biến diệt,
Biết đúng, giữ chánh niệm,
Bậc trí quán biến diệt.
Pháp khả ái, không động,
Không khả ái, không sân,
Các pháp thuận hay nghịch,
Được tiêu tan không còn’.

Vì không còn bị ám ảnh bởi cái bả danh vọng, lợi dưỡng chúng ta sẵn sàng mở lòng chấp nhận con người thật của mình, xấu có, tốt có, và cũng chấp nhận bất cứ cái gì đến với mình, thành công hay thất bại. Mình không để sự thôi thúc của sự hám danh hám lợi, từ bên ngoài lẫn bên trong, làm chủ, mà trở về tập trung sống thực với chính mình.

Mình có sự tự do để chọn lựa giữa hiểu biết, yêu thương và sợ hãi, oán hận. Bất cứ những trải nghiệm, hay hoàn cảnh nào mình có sự chọn lựa đó. Sợ hãi, âu lo sẽ khiến mình giới hạn sự tự do chọn lựa, và giới hạn niềm tin của mình vào bản thân. ‘Tôi muốn làm cái đó nhưng sợ làm không nổi’. Sự hiểu biết cùng yêu thương, ngược lại, khuyến khích chúng ta thử nghiệm khả năng mình, và không coi giá trị của bản thân mình là do kết quả của sự thành công hay thất bại. Mình đang tu tập cái tâm giải thoát bất động mà Phật dạy ở trên, không để cho thành bại quyết định con người mình.

Như vậy, sống có tiếng tăm, danh vọng nhưng thực chất không an lạc không phải là mục đích của đời người, và cũng không phải là những lời dạy bảo của Phật. Thà là mình sống không ai biết nhưng vui vẻ, tươi mát. Các pháp thuận hay nghịch là pháp luôn biến diệt, không thường còn. Tiếng tăm, danh vọng, lợi dưỡng cũng vậy, chúng đến rồi lại đi. Nếu sống với những cái giả tạm, mà cho là hạnh phúc thật sự, sẽ chỉ làm cho mình thêm đau khổ mà thôi! Cho nên, người nào hiểu đạo sâu sắc sẽ thấy danh lợi bề ngoài chỉ là ảo tướng.

Lại lẩn thẩn vào thế giới: ‘Biết rồi! Khổ lắm nói mãi!’. Dù biết vậy, nhưng cái thế giới vật chất càng ngày càng lớn mạnh. Nó đang dần chiếm mất cái nét đẹp của tâm linh, tình người, nhân nghĩa… Thế giới chúng ta đang sống không còn mênh mông to lớn nữa. Mà giờ đây thế giới đang thu nhỏ dần qua những phương tiện truyền thông hiện đại, như mạng internet, và luôn cả phương tiện giao thông, như máy bay càng ngày càng nhiều. 

Chính vậy mà việc hưởng thụ dục lạc, danh vọng và lợi dưỡng cũng tăng theo cấp số nhân. Những hình thức bề ngoài, dù không có gì xa lạ nhưng rất thịnh hành và phổ biến vì chúng ta đang tận mắt chứng kiến khắp nơi trên thế giới, qua mạng truyền thông, những cảnh sống xa hoa, phù phiếm. Nhưng mình có biết đâu rằng: Đó chỉ là những nét đẹp bề ngoài. Còn con người thật bên trong có hạnh phúc hay không, lại là chuyện khác! 

Theo nhân sinh quan của đạo Phật, chúng ta cùng nương nhau mà tồn tại. Hạnh phúc của người này, có thể, là nhân làm sinh ra hạnh phúc cho người kia. Nếu chúng ta cứ chật vật chạy theo những danh lợi, hạnh phúc, tiếng tăm giả tạm bên ngoài, và chà đạp lên mọi giá trị, đạo đức làm người, mình đang làm một khuôn mẫu xấu, ảnh hưởng đến người khác và, có thể, cho cả thế hệ mai sau. Cho nên, có đôi lúc mình cần những sự giúp đỡ để vượt qua những khó khăn, chướng ngại. 

Mỗi lần nhờ sự giúp đỡ của người khác, nếu mình không để cho cái cảm giác thấy mình bất lực, yếu kém xâm chiếm, mình đang mở rộng lòng đón nhận con người thật của mình. Chấp nhận sự thật và thôi tìm kiếm những giá trị ngoài bản thân mình, và đôi khi mình phải đầu hàng với sự thật, là một quá trình đầy khó khăn, phiền não. Nhưng nếu chúng ta biết dừng lại, lắng nghe bản thân mình, và hết lòng ôm trọn những khiếm khuyết và tốt đẹp của con người mình, và trở về bản chất chân thật của mình, thì đây mới chính là chỗ mình tìm thấy sự hạnh phúc và an lạc thật sự.

Thiện Ý


1 phat hoc.jpg
 
Giá trị thật không phải ở chỗ mình thành công được cái gì, mà là mình có đang thật sự sống và cảm nhận sự thành công đó - 
Ảnh minh họa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2020(Xem: 7088)
Dù Đức Phật đã là một bậc Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng Ngài cũng là một con người như bao nhiêu người khác nên không tránh khỏi nạn sanh lão bệnh tử trong đời này. Là một vị Sa-môn khiêm tốn, Đức Phật đã chọn nơi nhập diệt của mình ở một làng mạc xa xôi hẻo lánh, đó là làng Kushinagar, nơi có liên hệ mật thiết đến cuộc đời tu hành của Ngài trong một kiếp xa xưa. Tuy đã chuẩn bị như thế, nhưng những ngày tháng cuối cùng của Ngài vẫn là những ngày tháng làm việc không ngừng nghỉ. Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng Đức Phật không ngần ngại đi bộ trên những con đường chập chùng xa tắp, lên đèo xuống dốc, băng rừng vượt suối...
02/11/2020(Xem: 6998)
Hằng năm những người con Phật khắp nơi trên thế giới đều làm lễ cúng vía đức Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày âm lịch: - Ngày 19/02 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm đản sinh. - Ngày 19/06 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm thành đạo. - Ngày 19/09 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm xuất gia. Vào Triều Lý tôn Phật giáo Quốc đạo, dùng chủ nghĩa: Từ Bi hiện thực, lý tưởng Bồ tát đạo làm kim chỉ nam, Quốc sách An dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực:
02/11/2020(Xem: 5646)
Trong các đề tài trước, chúng ta đã thảo luận về bản đồ của các Phật tử ở Jepara, tỉnh Java, Indonesia. Tuy nhiên, những Phật tử “tồn tại” (ada) ở jepar, tỉnh Java ngày nay, theo các vị bô lão, chỉ sinh sôi và phát triển vào năm 1965. Vậy thì Phật giáo ở Jepara trước năm 1965 có còn dấu tích gì không? Từ quá khứ rất xa xưa trước khi Indonesia “tồn tại” các Vương quốc lớn đã chiến thắng ở quần đảo Nusantara. Jepara là một trong những trung tâm của Vương quốc đã từng chiến thắng. Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi vua cai trị đất nước.
01/11/2020(Xem: 6332)
Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) ở huyện Thạch Thất thuộc Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chốn già lam thánh chúng còn lưu giữ đến 60 bức tượng cổ, đã trở thành bảo vật của chùa, và cũng là bảo vật quốc gia. Những pho tượng cổ này đều được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, có tượng được tạc to hơn hình thể dáng vóc của người thường, và tất cả đều toát vẻ uy nghi thanh thoát...
01/11/2020(Xem: 5184)
Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.
31/10/2020(Xem: 4905)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo. Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.
31/10/2020(Xem: 18751)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Bảy, 31/10/2020 (15/09/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Phật pháp trụ trì Huyền lão gia Tây thiên Đông độ diễn ma-ha Thường ngồi hành đạo Hiếp tôn giả Ít muốn khiêm cung lão thượng tòa Nghìn dặm mang thư toàn giấy trắng Vạn thiên hùng biện vẫn không ngoa Tài ba xuất chúng hàng long tượng Pháp hội nương nhờ đạo mật-la (Thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa của HT Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
31/10/2020(Xem: 4734)
Hội thảo Học thuật sẽ được tổ chức để Kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Đại sư Tây Sơn (서산대사-西山大師, 1520-1604), người sẵn sàng quên mình vì nước, khi tổ quốc lâm nguy san hà nguy biến, khi triều đình liên tục bị đánh bại trong Chiến tranh Nhật-Hàn năm Nhâm Thìn (1592). Sự thiệt hại khủng khiếp trong cuộc chiến tranh này:
31/10/2020(Xem: 6130)
Hòa thượng họ Khổng (sau khi hoạt động Phật giáo Cứu quốc, do hoàn cảnh mới đổi thành họ Nguyễn) húy Hồng Hạnh, hiệu Vĩnh Đạt, thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, sinh năm Tân Hợi (1911), niên hiệu Duy Tân năm thứ 5, tại xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình làm nghề nông sùng mộ đạo Phật. Hạt giống bồ đề khơi mầm, vườn hoa Bát nhã nở hoa, ấu niên 9 tuổi, những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa, ngài trở thành chú tiểu đệ tử của đại lão Thiền sư Khánh Thông, Tổ đình Bửu Sơn, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri. Hòa thượng Bổn sư cho ngài thọ giới sa di vào ngày mùng Một tháng 07 năm Tân Dậu (1921) tại Bổn tự Bửu Sơn do bổn sư của ngài đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
31/10/2020(Xem: 7866)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Chưa lúc nào bản thân chúng tôi thấm thía Lý Duyên Sinh Phật dạy như lúc này. Quả thật..''Cái này sinh thì cái kia sinh'', chân lý này vận hành trong mọi sự vật và mọi sự kiện, bởi vậy một khi Dịch Covid còn kéo dài là nạn đói xứ Ấn còn tiếp tục lê thê..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]