Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có tiếng nhưng không có miếng

07/03/201306:27(Xem: 7097)
Có tiếng nhưng không có miếng

Co tieng


Ở đời, chúng ta thường thấy có người bên ngoài dáng vẻ giàu sang, thành công, đi xe sang trọng, nhà ở thật đẹp. Nhưng trên thực tế, họ rất chật vật trong đời sống hàng ngày. 

Tôi có một anh bạn quen, sang Mỹ chỉ mới hơn 5 năm mà đi xe hiệu BMW và ở nhà trong khu đắt tiền, cao cấp, lên đến bạc triệu. Hỏi ra thì anh chỉ cười buồn và than rằng lúc nào cũng bận rộn, không có thời gian rảnh. Sau này mới biết rằng anh làm 3 việc (job) cùng một lúc để có thể xoay xở trả cho căn nhà sang trọng và chiếc xe đắt tiền kia. 

Bề ngoài trông anh giàu có, nhưng bên trong anh thật sự túng thiếu quanh năm. Chắc bạn cũng muốn biết tại sao họ phải làm vậy? Mình có cơm ăn cơm, có muối thì ăn muối, có sao đâu! Mặc cảm nghèo nàn, thua thiệt đóng một vai trò quan trọng trong trường hợp này. 
Hình như chúng ta khoe khoang sự giàu sang, thành đạt của mình để tìm kiếm một lời khen thưởng, một sự thán phục từ bên ngoài. 
 
Nghĩa là, mình làm cật lực, nhọc mệt cả đời để đổi lại những ganh tức, bực bội của người bên ngoài vì họ không có những thứ mình đang hưởng thụ. Chạy theo danh vọng, tiền tài thì chẳng phải là điều gì mới mẻ!  Hầu như đa số cho rằng đó chính là mục đích sống của mình, dù phần lớn không ai muốn nói ra vì sợ bị chê là thiển cận, tham lam.

Dù biết là thế, nhưng ai cũng cứ cho là ‘hữu danh thì hữu thực’ nên mọi người cứ bon chen, bươn chải tìm kiếm vật dục, giàu sang bên ngoài. Có người dù đời sống trong gia đình thật là nhọc nhằn, vất vả nhưng vẫn cứ chạy theo đua đòi vẻ bề ngoài, và tìm mọi cách che giấu cái khổ đau, nhọc mệt mà mình và gia đình đang gánh chịu. Giống như một người nghiện rượu, dù biết rằng thói hư, tật xấu này sẽ chỉ mang lại niềm vui tạm bợ, và sẽ dìm mình xuống hố khổ đau về sau, nhưng vẫn tìm cách biện hộ, bào chữa rằng là mình chỉ uống cho vui, để giải sầu. Rồi đến một hôm, bừng tỉnh nhìn lại, người ấy mới thấy mình thực là ‘hữu danh, vô thực’.

Nếu bạn đi hỏi thử 100 người ngoài đường, ai cũng nói họ cần tiền, cần danh lợi vì những thứ này sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Có ai đó nói rằng: sống đời xứng đáng, có hạnh phúc không thể đo lường bằng tiếng tăm, tiền tài, hay vật chất mà bằng hạnh phúc, yêu thương mình trao đổi trong đời. Đó là nói về mặt vật chất. Phần tâm linh, cũng không ngoại lệ. 

Có người tu tập nhưng chỉ chuộng dáng vẻ bề ngoài nên thỉnh thoảng có người cười nhạo bằng câu: ‘Đường đường tăng tướng, dung mạo khả nghi!’ Dù biết rằng ‘chiếc áo không làm nên thầy tu’ nhưng với vẻ ngoài đạo mạo họ lầm tưởng rằng làm vậy sẽ được mọi người nể trọng.

Thực ra, Đức Phật không ngăn cấm việc làm giàu và cầu danh nếu những thứ này thực sự mang lại hạnh phúc, an lạc cho mình, và cho người. Như trong kinh Pháp hoa, phẩm Tựa thứ nhất:  Ngài Văn Thù nói rằng ngài Di Lặc trước kia là Cầu Danh Bồ-tát nhưng vẫn giữ trọn công hạnh Bồ-tát lợi mình, lợi người, và sau cùng, vẫn thành Phật. Vả lại, những trưởng giả giàu có trong thời Đức Phật tại thế, như ông Cấp Cô Độc, đã đóng góp, cúng dường, xây dựng tịnh xá cho chư Tăng. 
 
Nhờ vậy mà Phật pháp được tuyên dương, hưng thịnh. Công lao của các vị đại thí chủ này thật là đáng tán dương và vô cùng to lớn về mặt góp phần tạo dựng, phát huy, và duy trì văn hóa Phật giáo ở Ấn Độ thời đó. 
Phải nói rằng, nếu không có những đại thí chủ giàu có như vậy đóng góp thì việc phát triển Phật pháp khó khăn hơn nhiều!

Chúng ta không phải khao khát thành danh để được mọi người ca tụng, khen tặng. Chúng ta cũng không khao khát xem mình là một người ‘làm cái gì cũng được, cũng thành công’. Sở dĩ mình không khao khát được vậy vì mình hiểu rằng những cái mình mong mỏi đó sẽ khó mà mang lại hạnh phúc, an lạc bền lâu cho chính bản thân mình. 
 
Khi mình đánh giá bản thân qua những việc mình làm, giá trị hay không giá trị, mình đang phụng sự cho cái bản ngã của chính mình. Mình sẽ không bao giờ thỏa mãn sự đòi hỏi của bản ngã. Ngược lại, rất là đau khổ khi mình nếm mùi thất bại. Giá trị thật không phải ở chỗ mình thành công được cái gì, mà là mình có đang thật sự sống và cảm nhận sự thành công đó, hay ngay như cả thất bại, của chính mình. 

Trong kinh Trung bộ (kinh Thí dụ lõi cây), Phật dạy rằng: ‘Mục đích chính của đời sống phạm hạnh là tâm giải thoát bất động, đối với mục đích này thì tất cả những lợi lạc khác chỉ là cặn bã’ (Ni sư Trí Hải tóm lược). Như vậy, muốn sống thật với tâm giải thoát bất động mình phải hiểu rõ mình là ai, và sẽ không để bị tám ngọn gió đời (bát phong), lợi suy, vui khổ, vinh nhục và khen chê làm rúng động. Tình thực mà nói để tâm không bị tám ngọn gió đời lay chuyển là một điều rất khó làm! 
 
Như trong trường hợp của thi hào Tô Đông Pha (1037-1101) gởi tặng cho Thiền sư Phật Ấn (1032-1098), một bài thơ ông sáng tác: 

Thân tâm cúi lạy đấng Chí Tôn 
Hào quang tỏa sáng khắp càn khôn 
Tám ngọn gió đời lay chẳng động 
Thân tọa đài sen nét nghiêm trang. 

Sau khi làm xong bài thơ này, Tô Đông Pha rất hài lòng bèn cho người đem tặng Thiền sư Phật Ấn đang ở chùa Kim Sơn. Sau khi Thiền sư Phật Ấn xem qua bài thơ, bèn lấy bút phê vào hai chữ ‘’phóng thí’’ (có nghĩa là đánh rắm) và gởi lại cho Tô Đông Pha. Nhận thấy lời phê của Thiền sư Phật Ấn, Tô Đông Pha đùng đùng nổi giận vội bươn bả vượt sông sang chùa Kim Sơn để bắt tội Thiền sư Phật Ấn. 

Gặp nhau ở bến sông, Tô Đông Pha lớn tiếng trách: 

- Bài thơ tôi sai sót ở chỗ nào mà ông phê vào hai chữ “đánh rắm” kia. 

Thiền sư Phật Ấn cười xòa: 

- Ông nói “Tám gió thổi không động” mà chỉ cần một cái “đánh rắm” thôi đã bay sang sông rồi. 

Đến lúc ấy, Tô Đông Pha mới hiểu rằng tâm mình rõ ràng chưa bất động. Cho nên Thiền sư Hoàng Bá có dạy: 
 
Nếu không một phen sương thấm lạnh. 
Hoa mai đâu nở ngát hương thơm. 

Ông bà mình cũng có câu: ‘Có thực mới vực được đạo’. Nên nếu chỉ hiểu nghĩa của đạo thì vẫn chưa đủ. Phải biết sống với đạo thì mới có thể ‘vực được’ đạo! Trong kinh Tăng chi bộ (kinh Tùy chuyển thế giới, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật có dạy cách sống đạo như sau: ‘Đây là đặc thù, này các Tỷ-kheo, đây là thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp.

Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng,
Chỉ trích và tán thán,
An lạc và đau khổ,
Những pháp này vô thường,
Không thường hằng, biến diệt,
Biết đúng, giữ chánh niệm,
Bậc trí quán biến diệt.
Pháp khả ái, không động,
Không khả ái, không sân,
Các pháp thuận hay nghịch,
Được tiêu tan không còn’.

Vì không còn bị ám ảnh bởi cái bả danh vọng, lợi dưỡng chúng ta sẵn sàng mở lòng chấp nhận con người thật của mình, xấu có, tốt có, và cũng chấp nhận bất cứ cái gì đến với mình, thành công hay thất bại. Mình không để sự thôi thúc của sự hám danh hám lợi, từ bên ngoài lẫn bên trong, làm chủ, mà trở về tập trung sống thực với chính mình.

Mình có sự tự do để chọn lựa giữa hiểu biết, yêu thương và sợ hãi, oán hận. Bất cứ những trải nghiệm, hay hoàn cảnh nào mình có sự chọn lựa đó. Sợ hãi, âu lo sẽ khiến mình giới hạn sự tự do chọn lựa, và giới hạn niềm tin của mình vào bản thân. ‘Tôi muốn làm cái đó nhưng sợ làm không nổi’. Sự hiểu biết cùng yêu thương, ngược lại, khuyến khích chúng ta thử nghiệm khả năng mình, và không coi giá trị của bản thân mình là do kết quả của sự thành công hay thất bại. Mình đang tu tập cái tâm giải thoát bất động mà Phật dạy ở trên, không để cho thành bại quyết định con người mình.

Như vậy, sống có tiếng tăm, danh vọng nhưng thực chất không an lạc không phải là mục đích của đời người, và cũng không phải là những lời dạy bảo của Phật. Thà là mình sống không ai biết nhưng vui vẻ, tươi mát. Các pháp thuận hay nghịch là pháp luôn biến diệt, không thường còn. Tiếng tăm, danh vọng, lợi dưỡng cũng vậy, chúng đến rồi lại đi. Nếu sống với những cái giả tạm, mà cho là hạnh phúc thật sự, sẽ chỉ làm cho mình thêm đau khổ mà thôi! Cho nên, người nào hiểu đạo sâu sắc sẽ thấy danh lợi bề ngoài chỉ là ảo tướng.

Lại lẩn thẩn vào thế giới: ‘Biết rồi! Khổ lắm nói mãi!’. Dù biết vậy, nhưng cái thế giới vật chất càng ngày càng lớn mạnh. Nó đang dần chiếm mất cái nét đẹp của tâm linh, tình người, nhân nghĩa… Thế giới chúng ta đang sống không còn mênh mông to lớn nữa. Mà giờ đây thế giới đang thu nhỏ dần qua những phương tiện truyền thông hiện đại, như mạng internet, và luôn cả phương tiện giao thông, như máy bay càng ngày càng nhiều. 

Chính vậy mà việc hưởng thụ dục lạc, danh vọng và lợi dưỡng cũng tăng theo cấp số nhân. Những hình thức bề ngoài, dù không có gì xa lạ nhưng rất thịnh hành và phổ biến vì chúng ta đang tận mắt chứng kiến khắp nơi trên thế giới, qua mạng truyền thông, những cảnh sống xa hoa, phù phiếm. Nhưng mình có biết đâu rằng: Đó chỉ là những nét đẹp bề ngoài. Còn con người thật bên trong có hạnh phúc hay không, lại là chuyện khác! 

Theo nhân sinh quan của đạo Phật, chúng ta cùng nương nhau mà tồn tại. Hạnh phúc của người này, có thể, là nhân làm sinh ra hạnh phúc cho người kia. Nếu chúng ta cứ chật vật chạy theo những danh lợi, hạnh phúc, tiếng tăm giả tạm bên ngoài, và chà đạp lên mọi giá trị, đạo đức làm người, mình đang làm một khuôn mẫu xấu, ảnh hưởng đến người khác và, có thể, cho cả thế hệ mai sau. Cho nên, có đôi lúc mình cần những sự giúp đỡ để vượt qua những khó khăn, chướng ngại. 

Mỗi lần nhờ sự giúp đỡ của người khác, nếu mình không để cho cái cảm giác thấy mình bất lực, yếu kém xâm chiếm, mình đang mở rộng lòng đón nhận con người thật của mình. Chấp nhận sự thật và thôi tìm kiếm những giá trị ngoài bản thân mình, và đôi khi mình phải đầu hàng với sự thật, là một quá trình đầy khó khăn, phiền não. Nhưng nếu chúng ta biết dừng lại, lắng nghe bản thân mình, và hết lòng ôm trọn những khiếm khuyết và tốt đẹp của con người mình, và trở về bản chất chân thật của mình, thì đây mới chính là chỗ mình tìm thấy sự hạnh phúc và an lạc thật sự.

Thiện Ý


1 phat hoc.jpg
 
Giá trị thật không phải ở chỗ mình thành công được cái gì, mà là mình có đang thật sự sống và cảm nhận sự thành công đó - 
Ảnh minh họa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/05/2021(Xem: 12867)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5670)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5474)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5680)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4731)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4717)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4952)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4762)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3861)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7337)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]