Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoa Sen từ bùn dơ

16/02/201606:01(Xem: 5860)
Hoa Sen từ bùn dơ

hoa_sen

HOA SEN TỪ BÙN DƠ


Thích Đạt Ma Phổ Giác

Một chàng thanh niên thuộc giai cấp nô lệ hạ tiện, là giai cấp thấp nhất ở Ấn Độ, đang gánh phân đi trên con đường làng. Hôm đó đức Phật theo thứ lớp đi khất thực không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, Ngài bình đẳng đi hết xóm này đến làng khác và tình cờ gặp chàng gánh phân. Vì quá sợ sệt nên anh ta né qua đường khác nhưng trong lòng vẫn ao ước và tiếc nuối “biết đến bao giờ mình mới được như các Ngài”. Đang trong vòng suy nghĩ miên man, anhkhựng hẳn người bởi trước mặt anh là một bóng hình từ ái, trang nghiêm với ánh hào quang rực rỡ. Anh hoảng hốt định quay đầu bỏ đi vì sợ bị bắt nhưng Phật từ bi cất tiếng, “này chàng trai trẻ, Như Lai đang tìm đến con đây!” Giọng nói ngọt ngào và êm ái của Người đã làm anh bừng tỉnh, anh bất giác bỏ đôi gánh xuống, quỳ lạy thưa rằng, “dạ kính bạch Ngài, con không dám thân cận quý Ngài vì con sợ làm ô uế dòng dõi tôn quý, xin Ngài đừng đến gần con”. Đức Phật nở một nụ cười chan chứa tình thương và ôn tồn nói, “này chàng trai trẻ, không ai có quyền bắt tội con đâu, con hãy yên tâm, chính Như Lai đang tìm đến con. Như lai bây giờ không còn là hoàng thái tử trong giai cấp vua chúa nắm quyền thống trị như ngày xưa, Như Lai muốn chia sẻ với con một chút tâm tình có được chăng?” “Nhưng con là hạng người cùng đinh thuộc giai cấp nô lệ, Ngài không sợ bị nhiễm bẩn hay sao?” “Giáo pháp của Như Lai không phân biệt giai cấp vì mọi người đều máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn.” “Dạ kính bạch Thế Tôn, chính các giáo sĩ Bà la môn thường nói chỉ có giai cấp của họ và các bậc vua quan mới là tôn quý, xứng đáng được ăn trên ngồi trước, thờ cúng đấng Phạm Thiên. Chúng con là giai cấp nô lệ hạ tiện, chỉ biết phục dịch một cách vô điều kiện cho họ mà thôi.” “Chính vì vậy mà ta phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con thơ để ra đi tìm chân lý sống cho kiếp người. Nay ta đã biết rõ sự thật, không có một đấng quyền năng nào ban phước giáng họa cho ai cả, Như Lai xác quyết và bảo đảm với con điều đó. Giờ thì con có muốn sống một đời sống mới, bình an và hạnh phúc hay không?” “Điều này xưa nay con hằng mong muốn, nếu được Như Lai cứu độ thì còn gì hạnh phúc cho bằng”. Thế là đức Phật nắm tay chàng trai trẻ ra bờ sông tắm rửa sạch sẽ và dẫn chàng về tịnh xá Kỳ Viên. Sau một thời gian xuất gia làm Tỳ kheo, vì siêng năng tinh tấn tu hành mà chàng đã chứng quả A la hán với lực dụng không thể nghĩ bàn.

Vua Ba tư nặc bấy lâu nghe nói giáo đoàn đức Phật toàn thế phát cho hạng cùng đinh thấp kém nên rất bực tức, bất bình với Phật. Nay ông lại nghe Phật vừa độ tên hạ tiện Ni đề nên thấy không còn tôn ti trật tự trong hệ thống phân chia giai cấp, ông bèn cùng đám tùy tùng đi đến tịnh xá để khuyên Người không nên tiếp tục độ kẻ cùng đinh. Vừa đến cổng tịnh xá, mọi người nhìn thấy một vị Tỳ kheo đang ngồi trên tảng đá lớn với dáng vẻ trang nghiêm, đường bệ. Vua liền nhờ thầy vào trình đức Phật có vua Ba tư nặc đến thăm. Sau khi nhận lời, vị Tỳ kheo biến mình qua tảng đá lớn và mất dạng, sau ngài cũng từ tảng đá ấy hiện hình trở lại làm cho vua và các quan cận thần nể sợ. Vị Tỳ kheo nói, “đức Thế Tôn đã hứa khả, xin mời đức vua và các quan tùy tùng vào”. Sau khi đảnh lễ đức Phật, vua Ba tư nặc ngồi sang một bên thưa rằng, “kính bạch đức Thế Tôn, vị Tỳ kheo vừa vào yết kiến ngài là ai mà có sức thần thông quảng đại, vị ấy xuyên qua tảng đá lớn một cách nhẹ nhàng như trò ảo thuật. Con muốn đảnh lễ và cúng dường vị Tỳ kheo ấy có được chăng?” “Nhưng mục đích đại vương đến đây để làm gì?” “Dạ, con muốn giáo đoàn của Ngài không nên thế phát và xuất gia cho những người thuộc giai cấp cùng đinh hạ tiện, vì như vậy sẽ làm ô uế dòng dõi tôn quý của chúng con.” “Này đại vương, nếu những người đó được xuất gia làm Tỳ kheo và vẫn giác ngộ, giải thoát, tu tập chứng quả Thánh thì bệ hạ tính sao?” “Con nghĩ chuyện đó không thể có được!” “Đại vương có tin lời ta nói không?” “Dạ, con tin.” “Vị Tỳ kheo có sức thần thông tự tại ngài gặp ngoài cổng chính là Ni đề, người gánh phân thành Xá vệ thuộc giai cấp nô lệ phục dịch, người mà Ta đã xuất gia hơn một tháng nay.” “Nếu quả thật như thế con xin phát tâm cúng dường Tứ sự cho vị Tỳ kheo ấy”.

Vua Ba tư nặc đến gặp Phật mục đích chính là không chấp nhận cho những người giai cấp hạ tiện, nô lệ vào Tăng đoàn tu tập, vì ngài nghĩ những người thuộc dòng dõi Bà la môn tôn quý xuất gia vô số còn không chứng quả, huống hồ là những con người hạ tiện, bần cùng này. “Này đại vương, giáo pháp của Ta vốn bình đẳng về sự giác ngộ và si mê, nếu ai chịu khó siêng năng tu tập và thực hành đúng theo Chánh pháp thì đều có khả năng chứng ngộ. Đại vương nên biết, từ bùn lầy hoa sen vươn lên và nở hoa thơm ngát, cũng vậy, ai cũng có khả năng giác ngộ giải thoát như nhau.” “Vậy mà xưa nay con cứ nghĩ chỉ có những người thuộc giai cấp tôn quý mới tu hành chứng được Thánh quả, vì con thường nghe những vị Bà la môn nói như thế. Nay nếu không nhờ Thế Tôn chỉ dạy và thấy rõ ràng sự thật kiếp người thì con chỉ biết đấng Phạm Thiên sanh ra họ là để phục vụ cho giai cấp tôn quý chúng con”.

Xã hội Ấn Độ trước khi đạo Phật ra đời đã có truyền thống giai cấp thống trị có quyền bóc lột giai cấp cùng đinh do đấng Phạm Thiên làm chủ tể. Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ đã tìm ra chân lý cho con người, Ngài thấy được tất cả chúng sinh đều có đức tánh sáng suốt có thể giác ngộ. Mọi người sinh ra vốn bình đẳng như nhau giữa sự si mê và giác ngộ; dù là giai cấp Bà la môn hay Thủ đà la thì khi gieo quả xấu ác ắt phải chịu quả khổ đau. Ai gieo trồng phước đức thì được hưởng quả lành, hạnh phúc hay đau khổ đều do mình tạo lấy. Tôn quý hay cùng đinh là do hành động của mỗi người trong hiện tại. Chính sự ra đời của đạo Phật đã mang lại bình đẳng cho con người.

Hạng người từ tối vào sáng là hạng người đã nhận diện được lỗi lầm, từ đó cố gắng, can đảm, quyết tâm làm lại cuộc đời để vươn lên vượt qua số phận bất hạnh; như vậy, giàu hay nghèo không quan trọng, quan trọng hơn hết là mọi người phải có tấm lòng và tình yêu thương chân thật.

Nếu có người bần cùng

Biết tin sâu nhân quả

Ít nóng giận, buồn phiền

Thường xuyên biết hổ thẹn

Hay cúng dường giúp đỡ

Người tu hành chân chánh

Biết khiêm tốn học hỏi

Những điều hay lẽ phải

Luôn khuyên người bố thí

Khuyến khích và khen ngợi

Người cho lẫn người nhận

Người tu phước như thế

Từ đây đến đời sau

Luôn sanh các cõi lành

Đời đời hưởng phước báo

Từ tối vào nơi sáng

Là hạng người đáng kính.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2021(Xem: 4785)
Qua Covid-19, đến biến thể Delta, hoành hành khốc liệt, đã “minh bạch” nhiều vấn đề, khiến cho toàn thế giới suốt hai năm (2020-2021) phải chịu nhiều khủng hoảng về nhiều mặt và đầy hoang mang lo sợ. Các nhà khoa học cũng phải cuốn cuồng nghiên cứu, thử nghiệm, các nhà lảnh đạo hàng đầu thế giới với binh hùng tướng mạnh, tiện nghi vật chất hiện đại, thực hiện nhiều biện pháp, nhưng cũng chưa có gì khả quan, hữu hiệu, để ngăn ngừa dịch bệnh, mà phải thực hiện với một “thông điệp” được lặp đi lặp lại: “Bịt miệng, thường rửa tay và ở yên một chỗ” thì mới mong được an ổn. Cách đây hơn 26 thế kỷ, sau khi chứng ngộ dưới gốc cây Bồ Đề tại Bodh Gaya, Đức Phật đã biết, nhìn thấy và hiểu tận tường sự vận hành của vũ trụ, nên bài Pháp đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển là Tứ Diệu Đế (TDĐ) (Khổ - Tập - Diệt – Đạo) đã nói rõ lên được thực tế của “trần gian” chúng ta. TDĐ chỉ rõ sự thật về cuộc sống khổ đau của con người, về nguồn gốc nguyên nhân dẫn đến đau khổ, về sự chấm dứt đau khổ và phương pháp t
12/09/2021(Xem: 6111)
LUẬN ĐIỂN CỦA ATISHA súc tích nhưng bao hàm rộng rãi đem những vấn đề cốt yếu đến với nhau của những giáo huấn của ba lần Chuyển Pháp Luân, như đưa ra một cách tóm tắt trong chương hai. Nó được sáng tác ở Tây Tạng bởi một đạo sư Ấn Độ là Atisha Dipamkara theo lời thỉnh cầu của Jhangchup Wö, sau đó là người cai trị miền tây Tây Tạng. Jhangchup Wö đặc biệt thỉnh cầu một giáo huấn thật sự nổi tiếng vì sự thậm thâm của nó cũng như trong sáng của nó, vì thế nó có thể làm lợi lạc cho dân tộc Tây Tạng nói chung. Atisha súc động sâu xa và hoan hỉ vì sự chân thành thỉnh cầu của Jhangchup Wö, và đáp ứng lời thỉnh cầu ấy ngài đã sáng tác ra luận điển súc tích này.
10/09/2021(Xem: 7832)
Thưa quý vị, Con virus corona đang khiến cả thế giới hoảng loạn chao đảo. Nhưng Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus... Mỗi ngày, con virus lần lượt phơi bày tất cả sự thật mà chúng ta từ lâu đã không có khả năng nhìn thấy hoặc cố tình quên đi. Mỗi ngày, nếu để ý, ta sẽ thấy mỗi diễn biến của nó đều điểm vào những sai trái mà con người đã bày ra khi đến thế giới này. Nó bóc trần lần lượt những dối trá, vốn luôn được che đậy kỹ càng. Giờ đây con người nhận ra không có gì dấu giếm được dưới ánh mặt trời.
08/09/2021(Xem: 6517)
Hành trình 10 năm ăn thuần chay của giáo viên trường tiểu học Luo Yuliang (小學羅裕良), nhằm mong muốn việc sinh nở của vợ được suôn sẻ. Thường nhật tại tư gia, đến bữa ăn vợ chồng thầy giáo luôn "Bên mâm cơm chay" (鍋邊素), cho đến khi cơ hội cho ba đứa trẻ cắp sách đến trường, chúng cũng được cung cấp các bữa ăn chay. Sau đó, đã mở ra một phong trào mới cho gia đình 5 nhân khẩu đều ăn hoàn toàn thuần chay.
06/09/2021(Xem: 5658)
Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ 1Hình 1: Cư sĩ Phật tử Mazie Keiko Hirono thời còn là cô bé với mẹ, tỉnh Fukushima, Nhật Bản, vào khoảng năm 1949. Ảnh: Mazie Hirono Đây là tự truyện do Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ kể rằng: "Được đặc ân và trách nhiệm khi tôi phục vụ người dân Hawaii tại Thượng viện Hoa Kỳ. Là một người nhập cư và trưởng thành trong hoàn cảnh khó khăn, tôi chưa từng bao giờ cảm nghĩ, đối với con đường quan lộ đến Thượng viện Hoa Kỳ. Đồng thời, những kinh nghiệm của tôi cho thấy những cơ hội có sẵn đáng kinh ngạc ở Mỹ, và thúc đẩy tôi mong muốn được đền đáp.
04/09/2021(Xem: 24988)
Thiền Sư Khánh Hỷ (1066- 1142) Đời thứ 14 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Một vị Tăng Thống thời Vua Lý Thần Tông Đây là Thời Pháp Thoại thứ 281 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 04/09/2021 (28/07/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 11:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
02/09/2021(Xem: 4828)
Lại một quyển sách khác nữa được điểm, để giới thiệu đến với mọi người, nhất là những người ít có thời gian để đọc một quyển sách dày mấy trăm trang, thì đây là một bài giới thiệu tóm tắt về tác giả và tác phẩm. Sách dày 360 trang, nhưng nếu in hai mặt thì số trang chỉ bằng một nửa mà thôi. Bởi lẽ khi Lotus Media ở Hoa Kỳ tái bản năm 2020 do Uyên Nguyên trình bày, muốn làm cho quyển sách dịch ra Việt ngữ của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải trang trọng hơn, để tỏ lòng với người đã khuất, cũng như muốn cho độc giả thâm nhập sâu hơn với ngôn ngữ của Thiền, nên mới cho chúng ta nhiều không gian thoáng mát như vậy, để khi đọc và khi gấp sách lại tư duy những lời dạy ngắn gọn, rất dễ hiểu của Thiền Sư Bankei Yotaku một cách sâu sắc hơn nữa.
02/09/2021(Xem: 5137)
Chánh là ngay thẳng. Tư (思) và Duy (惟) đều thuộc bộ tâm. Tư duy là quá trình vận hành của não bộ giúp con người suy nghĩ, xem xét, giải quyết những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Chánh Tư duy là suy nghĩ, xem xét, giải quyết đúng vấn đề. Người có chánh tư duy dễ dàng thực hiện thành công mục tiêu lý tưởng của mình. Hành trì chánh tư duy luôn đem lại chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, bởi tư duy là cơ bản của lời nói và của hành động
02/09/2021(Xem: 5397)
Phần này (32B) bổ túc cho bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: nên mười tuổi và nên hoa” (phần 32) về hai cách dùng bình lang (tân lang, cây cau) và (đảo) Côn Lôn/Côn Nôn. Các dữ kiện cho thấy khuynh hướng lẫn lộn n và l đã từng xẩy ra cho đến ngày hôm nay. Trong tuần lễ soạn phần bổ túc (giữa tháng 8 năm 2021), người viết (Nguyễn Cung Thông/NCT) còn thấy trên các mạng truyền thông hiện tượng lẫn lộn n và l như trong các utube ở phần sau. Hi vọng loạt bài viết này là động lực cho người đọc tìm hiểu sâu xa hơn và khám phá nhiều điều thú vị về tiếng Việt phong phú của chúng ta.
02/09/2021(Xem: 5441)
PERRIS, California – Chùa Hương Sen hôm Chủ Nhật 29/8/2021 đã đón nhận 28 thùng kinh và sách Phật học để sẽ lưu giữ tại thư viện tương lai sắp xây của chùa. Trong đó, 20 thùng kinh và sách là từ Cư sĩ Tâm Diệu và nhóm bạn đạo Thư Viện Hoa Sen, 8 thùng kinh và sách là từ Cư sĩ Nguyên Giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]