Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc sống trong bệnh viện của Đức Phật

06/09/201505:23(Xem: 9648)
Cuộc sống trong bệnh viện của Đức Phật

 Buddha's Hospital



Cuộc sống trong bệnh viện của Đức Phật

 

 ( Life in the Buddha's Hospital )

 

Thanissaro Bhikkhu

Hoang Phong chuyển ngữ

 

 

 

Lời giới thiệu của người dịch

 

            Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật".  Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.  

 

 Thanissaro Bhikkhu

Nhà sư Thanissaro Bhikkhu (sinh năm 1949)

 

***

Cuộc sống trong bệnh viện của Đức Phật

 

Thanissaro Bhikhu

 

            Đạo Pháp (Dhamma) cũng tương tự với ngành Y Khoa. Bạn có thể nhận thấy điều đó qua cách giảng dạy của Đức Phật. Trước hết Ngài thuyết giảng về Bốn Sự Thật Cao Quý, đó là những gì thật hết sức giống như cách phân tích [các triệu chứng bệnh tật] hầu tìm kiếm một phương cách chữa trị. Và Ngài cũng đã tìm được phương thuốc chữa một thứ bệnh quan trọng nhất của tâm thức: đó là sự khổ đau, phát sinh từ sự thèm muốn (craving/thèm khát, bám víu, đam mê...)  và  vô  minh (ignorance/sự u mê tâm thần).  Thật vậy, đấy cũng là những gì mà chúng ta phải chữa trị. Trước hết Đức Phật phân tích các triệu chứng của căn bệnh, chẩn đoán, tìm hiểu những nguyên nhân nào đã đưa đến căn bệnh ấy, và suy luận để tìm hiểu xem khi khỏi bệnh thì mình sẽ cảm thấy như thế nào, và sau hết thì Ngài đưa ra một đường hướng chữa trị làm cho căn bệnh phải chấm dứt, hầu mang lại sức khỏe cho mình.

 

            Một khi đã cùng tu tập với nhau tại nơi này (tức là trong ngôi chùa này) thì điều quan trọng nhất là chúng ta phải ghi nhớ rằng: Những gì mà chúng ta cần phải chữa trị là bệnh tật trong tâm thức của chính mình. Mỗi người trong chúng ta đều mang bệnh. Dù căn nguyên của các thứ bệnh ấy đều giống nhau: đấy là sự thèm khát (bám víu, ham muốn, đam mê) và vô minh (sự u mê tâm thần), thế nhưng các hình thức thèm khát thì lại khác nhau [giữa mỗi người trong chúng ta]. Cũng thế, các thể dạng vô minh cũng không giống nhau. Chính vì thế nên chúng ta phải tỏ ra độ lượng với kẻ khác, chẳng qua là vì cách chữa trị của mỗi người đều không giống nhau.        

 

            Chẳng hạn như trường hợp được đưa vào bệnh viện. Trong bệnh viện, mỗi người một thứ bệnh. Người thì bệnh ung thư, kẻ thì bệnh tim, người bệnh gan. Có người vì ăn quá nhiều mà bệnh, có kẻ thì lại thiếu dinh dưỡng. Trong bệnh viện có đủ mọi thứ bệnh tật. Trong ngôi chùa này thì nào có khác gì đâu. Mỗi người trong chúng ta đều mang những thứ bệnh tật riêng. Vậy thì trong cảnh chùa này, bổn phận của chúng ta là phải chăm lo chữa trị các thứ  bệnh tật của chính mình, và không nên để mình lây thêm bệnh tật của kẻ khác - và trong khi đó thì cũng không nên bực mình nếu có ai không dùng cùng một phương thuốc với mình. Trong số chúng ta mỗi người một thứ bệnh, mỗi người một thứ thuốc. Có thứ thì đắng và khó uống, có thứ thì dễ uống hơn. Trong số chúng ta, mỗi người phải cần đến một phương cách chữa trị khác nhau. Thật hết sức quan trọng là phải chú tâm vào việc chữa trị cho mình, và không nên thắc mắc về việc chữa trị của kẻ khác.    

 

            Nếu bệnh trạng của một vài người không thuyên giảm như sự mong muốn của mình, thì cũng xin nhắc lại một lần nữa: đấy chẳng qua là vì bệnh tật của họ là như thế. Hãy luôn ghi nhớ điều ấy trong tâm. Hãy nhớ đến lời của nhà sư Ajahn Lee (nhà sư Thái Lan, 1907-1961, tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật giáo Theravada, và cũng là một trong số các vị thiền sư Thái Lan nổi tiếng nhất của thế kỷ XX): "Mỗi khi nhìn vào nội tâm mình thì đấy là Đạo Pháp (Dhamma). Mỗi khi nhìn ra bên ngoài thì đấy là thế giới". Và bạn thì lại không phải là một người quan sát thế giới một cách khách quan (tức nhìn vào thế giới dựa vào những sự suy nghĩ quy ước, công thức và chủ quan của mình, xuyên qua các xúc cảm đủ loại, thường là bấn loạn, của mình). Mỗi khi nhìn ra bên ngoài thì toàn bộ tâm thức của bạn cũng sẽ trở thành thế giới (xin liên tưởng đến học thuyết Duy Thức: thế giới bên ngoài mà mình trông thấy là do mình tạo ra từ bên trong tâm thức mình). "Người này làm chuyện này, người kia làm chuyện kia": thế giới là như thế, dù cho bạn có mang cách phân loại [chúng sinh] trong Đạo Pháp ra mà đánh giá họ [thì cũng chẳng thay đổi được gì]. [Đấy cũng chỉ cách mà] bạn mang Đạo Pháp ra để mà biến nó trở thành thế giới. Tóm lại là bạn phải luôn quay nhìn vào bên trong [nội tâm] của chính mình.    

 

            Nói cách khác là nếu bạn bực mình vì một người nào đó, thì chuyện ấy có đáng hay không? Hãy suy nghĩ theo cung cách đó. Những gì đáng để quan tâm là các sự kiện xảy ra bên trong tâm thức mình. Đấy chính là những gì sẽ tạo ra bệnh tật cho mình. Vậy thì bạn có muốn chữa lành bệnh tật cho mình hay là làm cho chúng trở nên trầm trọng thêm?  Một khi đã bước vào con đường tu tập thì phải luôn nhắc nhở mình về câu hỏi ấy.

 

            Một khi đã chọn nếp sống chung và cùng tu tập với nhau, thì chúng ta tất sẽ phải thường xuyên trông thấy nhau, thế nhưng phải làm thế nào để chuyện ấy không ảnh hưởng quá đáng đến tâm thức mình (gặp nhau hằng ngày đôi khi khó tránh được những sự va chạm giữa cái tôi của mình và các cái tôi của những người khác). Vậy hãy nên quay nhìn vào bên trong (nhìn vào nội tâm mình và không nên nhìn vào cái tôi của người khác).  Ngay cả những lúc phải nhìn ra bên ngoài, thì bạn cũng nên tập trung vào bên trong của chính mình (có nghĩa là vẫn giữ sự sinh hoạt và giao tiếp bình thường, thế nhưng lúc nào cũng theo dõi và chủ động sự vận hành của tâm thức mình) [để mà tự hỏi]: "Tâm thức mình đang phản ứng ra sao trước chuyện này?"; "Tâm thức mình phản ứng ra sao trước chuyện kia?" Đấy là những gì sẽ giúp mình kiềm chế bớt các giác cảm của mình. Cách nay nhiều năm, có một bà khách lớn tuổi từ Thái Lan đến viếng chùa chúng ta, và đặc biệt là bà này rất chú trọng đến việc kiềm chế các giác cảm của mình. Đôi mắt bà lúc nào cũng nhìn xuống và gần như không hề trò chuyện với ai cả. Một hôm tình cờ bà bắt gặp một người nói lén bà cho rằng bà là người phách lối, không thân thiện, chẳng qua là vì bà không hề hỏi han cũng chẳng trả lời ai cả. Bà bèn tìm tôi để than phiền về những người chung quanh không kính trọng việc kiềm chế giác cảm của bà. Thật hiển nhiên, sự kiềm chế ấy không còn mang một ý nghĩa nào nữa, khi mà mình vẫn còn bực tức mỗi khi có ai dèm pha mình?   

 

            Sự kiềm chế hoàn toàn thuộc vào lãnh vực nội tâm. Trong cuộc sống, bạn không sao tránh khỏi phải nghe chuyện này, trông thấy chuyện kia, thưởng thức thứ này, chạm phải thứ khác, suy nghĩ hết chuyện này sang chuyện nọ. Chủ đích của sự kiềm chế là không được biến các thứ ấy trở thành trọng tâm của sự tập trung chính yếu của mình. Quá trình phản ứng của tâm thức đối với thị giác tùy thuộc vào những gì mà nó trực tiếp trông thấy, đối với các giác quan khác thì cũng thế: đấy là điều mà bạn phải ghi nhớ. Nếu có các khó khăn xảy ra và ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn, thì bạn phải xử trí như thế nào? Đức Phật đã dự trù thật nhiều phương thuốc chữa trị đủ loại, chúng ta tha hồ mà lựa chọn. Việc tụng niệm bài kinh về 32 thành phần của cơ thể (nêu lên trong kinh Maha Satipatthana Sutta/Kinh Đại Niệm Xứ, thuộc Trường Bộ Kinh/Digha Nikaya 22. Ba mươi hai thành phần của cơ thể là: tóc, lông, móng, răng, da; thịt, gân, xương, tủy, thận; tim, gan, chất nhầy, là lách, phổi; ruột già, ruột non, màng ruột, phẩn, óc; mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ; nước mắt, huyết tương, nước miếng, nước mũi, chất nhờn, nước tiểu) là một phương thuốc chữa trị hữu hiệu sự bám víu vào thân xác của mình và sự thèm khát thân xác của kẻ khác. Việc tụng niệm bài kinh về Bốn thái độ tuyệt vời (tiếng Phạn là: samyak-prahanani; Pa-li là: samma-padhana; tiếng Hán là: [Tứ] Chánh Cần; tiếng Việt là: [Bốn] sự cố gắng hoàn hảo. Đó là bốn phẩm tính nêu lên trong Đại-bát Niết-bàn Kinh/Mahaparinibbanasutta, Trường Bộ Kinh/Digha Nikya, DN 16,  gồm: 1- từ bỏ các hành động thiếu đạo hạnh đã phát sinh; 2- tránh các hành động thiếu đạo hạnh chưa phát sinh; 3- gia tăng các hành động đạo hạnh đã phát sinh; 4- phát huy các hành động đạo hạnh chưa phát sinh) là phương thuốc không những chữa trị sự giận dữ mà cả sự oán giận, ganh ghét cũng như tất cả các xu hướng hung dữ trong tâm thức mình. Nhiều khi bạn cũng không sao tránh khỏi được những sự bực mình gây ra bởi những chuyện hoàn toàn vượt khỏi sự chủ động của mình. Trong các trường hợp đó bạn phải nghĩ ngay đến quy luật của nghiệp, hầu mang lại sự bình thản cho mình.

  

            Dù là bệnh gì thì cũng có thuốc để hóa giải nó, bổn phận của mình là phải mang ra mà chữa trị. Bởi vì, và dù sao đi nữa, nào có ai khác có thể thay mình gánh chịu khổ đau do bệnh tật của mình gây ra đâu? Cũng có trường hợp kẻ khác khổ đau một phần nào đó [trước những khổ đau của mình], thế nhưng chính mình mới thật sự là người phải gánh chịu khổ đau. Chúng ta khổ đau rất ít trước những gì mà kẻ khác đang phải gánh chịu, thế nhưng lại khổ đau rất nhiều vì [cung cách hành xử] vụng về trong tâm thức mình.   

 

            Trong kinh sách Đức Phật có dạy cách cư xử như thế nào để giúp mình tránh được sự thèm khát (craving/thèm muốn, bám víu) và tự phụ (conceit/ngạo mạn, kiêu hãnh, tự hào, kiêu ngạo), thế nhưng cứ mỗi khi nhìn vào kẻ khác thì chính mỉnh là người có lý. Thật hết sức rõ ràng, sự thèm khát và tự phụ của mình sẽ mang lại mọi sự khó khăn cho mình. Tuy nhiên, bí quyết [giúp giải quyết các khó khăn ấy] là phải trông thấy được sự thèm khát của mình và sự tự phụ của mình. Nếu [bất chợt] nhận thấy mình đang xét đoán kẻ khác theo cung cách trên đây (tức là mình có lý) thì phải dừng lại ngay và tự nhủ: "Khoan đã! Tôi có phải là người giữ trọng trách kiểm soát sự đúng đắn của người khác hay không?" (trong nguyên bản là: Tôi có phải là [nhân viên của] Văn Phòng Quốc Gia Kiểm Nghiệm Đo Lường hay không?/Am I the National Bureau of Standards?).  

 

            Sau đó thì bạn hãy quay lại để nhìn vào chính mình. Sự thèm khát của mình đang như thế nào? Bạn muốn mọi sự phải xảy ra theo một cung cách nào đó, thế nhưng chúng lại không xảy ra đúng với sự mong muốn của mình, tức là phải đúng như thế. Đây cũng là một bài học thật quan trọng mà tôi đã học được [trong khi sống và sinh hoạt chung] với nhà sư Ajahn Fuang (một nhà sư Thái Lan, 1915-1986, tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng", và cũng là đệ tử thân tín nhất của nhà sư Ajahn Lee nói đến trên đây). Dường như cứ hể mỗi khi tôi gặp phải những công việc thật khó thì ông ta lại ngã bệnh. Chẳng hạn như mỗi khi tôi có một dự án nào đó phải thực hiện trong chùa, thì ông ta ngã bệnh, và tôi lại phải ngưng tất cả để chăm sóc cho ông ta. Tôi bắt đầu cảm thấy một sự bất mãn (bực mình, không vừa ý) dâng lên trong tôi và sau cùng tôi tự nhủ: "Ê! khoan đã. Nếu mình loại bỏ được sự mong muốn sớm hoàn tất dự án đó, thì mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn". Đồng thời nếu tôi thật sự buông bỏ được sự mong muốn thực hiện cho xong dự án ấy, hầu chăm sóc cho ông ta chu đáo hơn, đúng với sự mong muốn của tôi, thì tất mọi sự trong chùa sẽ trở nên suông sẻ hơn. Nhất là đối với [những gì sẽ xảy đến với] tôi, và có thể cả ông ta cũng sẽ được hưởng lây một phần nào đó (được chăm sóc).  

 

            Khi nào bắt đầu hiểu được sự thật ấy, thì bạn cũng sẽ ý thức được rằng: Các sự thèm khát của mình chính là những gì làm cho mình khổ sở. Vì thế bạn phải buông bỏ những thứ ấy. Khi nào buông bỏ được chúng thì khi đó bạn sẽ cảm thấy mình đủ sức chịu đựng bất cứ một cảnh huống nào [xảy đến với mình]. Điều đó không có nghĩa là bạn trở thành lười biếng (buông tay, thiếu nghị lực) hay lãnh đạm, mà đơn giản chỉ là cách cứ để cho mọi sự đi theo con đường của chúng. Bạn phải biết xác định rõ rệt: trong trường hợp nào mình có thể làm cho mọi sự biến chuyển khác hơn? Trong trường hợp nào sự thèm khát có thể giúp mình thăng tiến trên Con Đường (thèm khác dưới các hình thức ước vọng thực hiện được những điều đạo hạnh chẳng hạn)? Trong những trường hợp nào sự thèm khát sẽ trở thành chướng ngại ngăn chận Con Đường? Bạn phải luôn học hỏi để biết phải làm thế nào để xác định [đúng] mọi sự vật, phải làm thế nào để trở nên khéo léo hơn hầu giúp mình biết là phải hướng các sự mong muốn của mình vào đâu, hướng các ước vọng của mình theo chiều hướng nào? Thêm một lần nữa, vấn đề không nằm bên ngoài, mà bên trong nội tâm mình. Tất nhiên mình cũng đau khổ ở một mức độ nào đó đối với những thứ bên ngoài, nhưng nguyên nhân khiến mình khổ đau [nhiều nhất] chính là [các cách hành xử] vụng về bên trong của chính mình. Đấy chính là những gì mà mình phải biến cải. Khi nào giải quyết được các khó khăn bên trong, thì các khó khăn bên ngoài sẽ hoàn toàn không còn gây ra được một tác động nào đối với mình nữa.    

 

            Ngoài ra sự tự phụ cũng là một yếu tố khác mang lại mọi thứ khó khăn cho mình. Tự phụ không có nghĩa là phình ngực lên và nghĩ rằng là mình hơn kẻ khác. Theo lời Phật dạy thì đấy là xu hướng [tự nhiên] của tâm thức tự so sánh nó với kẻ khác. Dù mình có thốt ra: "Tôi còn tệ hơn cả người ấy nữa", hoặc: "Tôi cũng chỉ ngang hàng với người ấy", thì đấy cũng đủ là tự phụ rồi. Những sự xưng hô: "Đây là Tôi ", "Đấy là do Tôi làm", "Cái này là của Tôi", tự chúng đã hàm chứa sự tự phụ. Đấy là những gì sẽ gây ra vô số vấn đề, và cũng là nguyên nhân chính yếu nhất mang lại bệnh tật cho mình.   

 

            Đức Phật cho biết là phía sau cách nói lên "Tôi là..." ("I am"/"Je suis"/"Tôi hiện hữu ") tàng ẩn nguyên nhân làm bùng lên vô số ý nghĩ trong tâm trí mình, và tạo ra mọi sự phân biệt và khiến cho mọi việc trở nên rắc rối hơn. Sự phức tạp đó sẽ làm nảy sinh ra giai cấp và mọi sự xung đột. Tất cả những thứ ấy đều phát sinh từ câu "Tôi là...". Sự phát lộ căn bản nhất của sự thèm khát cũng bắt đầu bằng câu: "Tôi là...". Từ đó lại hiện ra "Tôi từng là...", "Tôi sẽ là...", "Phải chăng tôi là...", "Phải chăng tôi không phải là...", và kể cả đủ mọi thứ thắc mắc khác phát sinh mỗi khi đặt chữ "Tôi" đứng trước chữ "là" (tức là điểm khởi đầu của sự hình thành của cái ngã) và tự nhận mình là những thứ ấy (xem các thứ ấy là "cái tôi" và "cái của tôi", hay là cái ngã của chính mình). Chúng ta bắt đầu so sánh cái "Tôi là..." ấy của mình với kẻ khác, và [sau đó] là xác định họ theo sự suy nghĩ của mình. Do đó, hoặc là bạn hơn kẻ khác, hoặc ngang hàng hay là thua kém họ. Thế nhưng dù bạn xác định mọi sự theo cung cách nào, thì đấy cũng chỉ là nguyên nhân chính yếu mang lại mọi thứ khó khăn cho bạn.

 

            Bạn chỉ cần ghi nhớ duy nhất một điều sau đây là cũng đủ: Bệnh tật của kẻ khác là bệnh tật của họ. Họ phải tự chữa trị cho mình, phải lo uống thuốc. Bệnh tật của bạn là của bạn - việc chữa trị thuộc trách nhiệm sơ đẳng nhất của bạn. Nếu người nằm cạnh bạn trong bệnh viện không chịu uống thuốc, thì đấy là chuyện của họ. Bạn có thể giúp đỡ họ bằng cách khuyên nhủ, thế nhưng đến một lúc nào đó thì bạn cũng sẽ phải thốt lên: "Đành phải chịu thôi, đấy là chuyện của họ. Mình phải lo chữa bệnh cho mình trước đã". Đấy chẳng phải là cách ổn thỏa nhất cho tất cả chúng ta hay sao!

 

            Khi nào sự bám víu, tức là sự thèm khát, và các cảm tính tự phụ không còn gây ra chướng ngại trên con đường nữa, khi ấy dù mình đang tu tập ở bất cứ nơi nào thì nơi ấy cũng sẽ là nơi lý tưởng nhất. Người ta thường tự hỏi: "Nơi nào tu tập tốt nhất?". Câu trả lời sẽ là: "Tại nơi-này và trong giây-phút-này". Thật ra thì nơi ấy cũng là nơi duy nhất có thể giúp bạn tu tập. Thế nhưng dù đang ở nơi nào thì bạn cũng phải làm một cái gì đó để biến cải "nơi-này và giây-phút-này" trở thành một nơi tu tập thích nghi nhất, cho bạn và cho cả những người khác chung quanh bạn. Điều đó không nhất thiết tùy thuộc vào những gì có thể cải biến được từ bên ngoài mà phải biến cải cung cách hành xử bên trong nội tâm của bạn. Chí có cách ấy mới biến nơi mà chúng ta đang tu tập trở thành một nơi thật tốt hầu tất cả chúng ta có thể cùng nhau tu tập.

 

 
hoang_phong

Vài lời ghi chú của người dịch

 

            Cách viết của nhà sư Thanissaro Bhikkhu thật khéo léo, bóng bẩy và nhẹ nhàng. Cuộc sống trong bệnh viện của Đức Phật chính là sự sinh hoạt của tăng đoàn trong chốn chùa chiền. Những người xuất gia là những người may mắn được vào bệnh viện của Đức Phật để được chữa trị tích cực và đúng đắn hơn. Bổn phận của họ là phải tạo ra một khung cảnh tương trợ và hài hòa trong bệnh viện mà mình đang được chữa trị, và hơn nữa dù chỉ là một người bệnh, thế nhưng dưới một khía cạnh nào đó hoặc qua một phần sinh hoạt thường nhật nào đó, chính mình cũng phải tự biến mình trở thành một y sĩ, không những là để tự chữa trị bệnh tật cho mình mà cho cả người khác. Do đó những người được điều trị trong bệnh viện cũng nên cố gắng sớm bình phục, không những là để nhường chiếc giường của mình cho kẻ khác, mà còn phải trở thành một vị y sĩ để chăm sóc cho họ. 

 

            Dưới một góc nhìn khác những gì trên đây còn cho thấy là tất cả chúng ta - dù là những người tu hành trong chốn chùa chiền hay những người thế tục - đều là những người bệnh như nhau, bởi vì bệnh tật theo Phật giáo không phải chỉ là những hình thức đau đớn trên thân xác được xác định và giảng dạy trong các trường Y khoa, mà còn là những thứ đớn đau thật sâu kín trong nội tâm của con người.

 

            Sự khổ đau đó mang tính cách hiện sinh, đó là sự trói buộc và vô thường của sự sống. Những hình thức khổ đau ấy thật mênh mông, vì thế bệnh viện của Đức Phật cũng phải thật to rộng, thế nhưng càng to rộng thì bổn phận của mình cũng càng nặng nề hơn, và mình cũng phải cố gắng hơn, hầu giúp mình sớm bình phục để có thể chăm sóc hiệu quả hơn cho những người đang nằm cạnh bên mình và tất cả các chúng sinh khác đang đau ốm và vẫn còn lang thang bên ngoài bệnh viện.

             

            Độc giả có thể tìm đọc bản gốc tiếng Anh và bản dịch tiếng Pháp của bài này trên các trang mạng:

 

- tiếng Anh; http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/thanissaro/meditations.html#life

- tiếng Pháp: http://www.buddhaline.net/La-vie-a-l-hopital-du-Bouddha

 

            Ngoài ra độc giả cũng có thể thỉnh các tập sách in, gom góp các bài giảng của nhà sư Thanissaro Bhikkhu gồm: Meditation 1 (2003), Meditation 2 (2006), Meditation 3 (2006), Meditation 4 (2010), Meditation 5 (2011) qua địa chỉ: Metta Forest Monastery, P.O. Box 1409, Valley Center, CA 92082, USA, hoặc cũng có thể trực tiếp xem các tập sách này trên mạng.

 

 

                                                                                                Bures-Sur-Yvette, 06.09.15

                                                                                                 Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5456)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4458)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5327)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5540)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8675)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6562)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6280)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4568)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9824)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6288)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]