Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Định hướng cho đường Tu

28/10/201222:24(Xem: 4706)
Định hướng cho đường Tu

phat thich ca 2
“Lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và làm nở hoa cho cuộc sống’’đó là lý tưởng giải thoát, giác ngộ, thoát ly sanh tử, mà người Tu và mọi người Phật tử phải hướng đến và đạt cho được, để tự thân được an lạc hầu làm điều kiện căn bản xây dựng gia đình hạnh phúc, giúp xã hội được bình an, góp phần vào kiến tạo hoà bình cho thế giới, và Tinh độ nơi trần gian.

Tại sao phải cầu giải thoát, giác ngộ ? ai ràng buộc Ta ? ai làm cho Ta mê mờ mà phải cầu giác ngộ ? Tâm ta vẫn luôn trong sạch như mặt trời vẫn luôn toả sáng kia mà ! có bao giờ mặt trời không toả sáng đâu ! có phải chăng do bởi mây ngăn che nên mặt trời tạm thời không chiếu soi khắp cả được, cũng vậy, Tâm của mỗi chúng ta vẫn luôn trong sáng, nhưng vì một chút vô minh, vọng tưởng “chấp ngã, chấp pháp”, khiến cho tham – sân – si khởi lên làm mê mờ tâm trí để phải tạo ra muôn ngàn tội lỗi.

Tự trong Tâm ta vọng niệm khởi lên, thì cũng phải tự trong Tâm ta vắng lặng, mới trả lại sự trong sáng của Chân Tâm được. “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc’’có nghĩa là tự soi xét lại mình đó là phận sự chính, không vì ở ngoài mà được, không tìm cầu ở đâu ngoài Tâm mà được là như vậy đấy.

Tại sao chúng sanh phải chịu nhiều đau khổ, có phải chăng do Ái dục gây ra, vì:’’Ái dục là gốc khổ đau, ham muốn nhiều luỵ khổ càng sâu, nhọc nhằn sinh tử bấy lâu, đều do ái dục dẫn đầu gây nên’’. Biết được gốc rễ là do ái dục, mà ái dục là do thấy mọi cảnh chung quanh đều thật có, trường tồn vĩnh viễn để rồi ham muốn lo tom góp về để thụ hưởng, tất cả đều phục vụ cho bản ngã mà gây nên cả. Nhưng thật tế trong cuộc đời có cái gì là trường tồn mãi mãi đâu nhỉ ! có đó rồi cũng mất đó, có rồi hoàn không kia mà, nếu ta cứ mãi chạy theo sắc dục, những tiện nghi vật chất hiện đại của vô thường, sinh diệt nầy, thì cái của báu chân thường vắng lặngtrong mỗi chúng ta sẽ khó mà hiển lộ, và trầm luân sinh tử chúng ta vẫn mãi đeo mang.’’Nếu không có niềm vui chân thật bên trong, thì mọi tiện nghi vật chất bên ngoài chỉ là suối nguồn đau khổ’’ Niềm vui chân thật chỉ có khi không còn bản ngã, tức là vô ngã mà vô ngã tức là Niết bàn.

Thấy rõ ràng được như vậy nên Đức Phật đã nói Tâm kinh Bát nhã và chư Tổ đã đưa vào nghi thức cho chúng ta trì tụng hằng ngày, với mục đích là nhắc nhở chúng ta luôn nhớ và thực hiện theo, mà câu quan trọng nhất là:’’Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách’’, có nghĩa là phải luôn quán chiếu thấy năm uẩn ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức ) nầy đều là không, tức là VÔ NGà “ nghĩa là không có một cái gì tự nó sinh ra, tự nó tồn tại và giữ nguyên vị trí cố định của nó mãi mãi, tất cả đều phải chuyển biến. Vật thể thì chuyển biến từ vật này để sinh ra một vật khác; từ thân thể này qua thân thể khác. Tinh thần thì chuyển biến từ một loài này qua một loài khác, tất cả cũng giống như nước gặp nóng biến thành hơi, hơi tụ lại thành mây, mây gặp lạnh biến thành mưa, mưa biến thành nước tuôn xuống ao, hồ, sông, suối…rồi tràn vào biển cả, và cứ thế luân hồi xoay chuyển. Sự thay đổi vật chất đến tinh thần như vậy là vì tự thân nó không có một cái gì đích thực là nó, mà phải do nhiều duyên hợp lại mới thành. Nếu có một cái gì đó đích thực là nó, thì không thể nào kết hợp được với một cái khác để sinh ra một cái khác nữa. Cái không đích thực đó gọi là vô ngã”hiểu rõ điều nầy để không bị chấp chặt và dính mắc vào, thì qua khỏi hết mọi nạn tai khổ ách.

Muốn Vô ngã và bào mòn được bản ngã, thì mỗi chúng ta phải luôn quên mình đi, lo sám hối tội lỗi tự bao đời, thường luôn soi xét lại mình và hay mang an vui hạnh phúc đến cho mọi người, sống tuỳ duyên, đơn giản, ít muốn, biết đủ là ta đã lần hồi giảm bớt khổ đau và từng bước đi vào con đường An lạc để đạt đến sự giải thoát và giác ngộ. Chỉ có đơn giản như vậy, nếu chúng ta có chánh kiến và tinh tấn tu tập, giới định nghiêm trì thì trí tuệ sẽ phát sinh, thần thông hiển lộ. Đây là cách Tu tập bình dị, hiệu quả để biến pháp Phật nhiệm mầu thành những thang thuốc trị tâm bệnh thần diệu và là dưỡng chất nuôi sống tô đẹp cuộc đời, đó cũng là cách Tu để báo ơn, đền ơn một cách rốt ráo nhất.

Đức Phật nhà đại y vương đã có dạy: “Nước của bốn đại dương chỉ có một vị đó là vị mặn, giáo lý của Ta cũng chỉ có một vị đó là hương vị giải thoát” hương vị nầy là những phương thuốc thần diệu để trị Tâm bệnh, hướng vào Tâm để Tu đó là chánh đạo, còn hướng ra ngoài Tâm là ngoại đạo, nếu ai sử dụng pháp Phật để trị Tâm bệnh mà không lành thì hãy xem lại Tâm ta có được an chưa, hay việc sử dụng có đúng thuốc, có đúng liều lượng, có đúng thời gian và sử dụng liên tục hay không ? ( cũng giống như mài củi lấy lửa, nếu chưa có lửa mà ngưng thì sẽ không bao giờ có được lửa, Tu hành mà không đến nơi đến chốn thì cũng khó mà thành Phật )

Phật tại Tâm chứ có đâu xa, nếu Ta cứ chạy theo bên ngoài mãi tìm cầu, coi như tà kiến thì muôn kiếp có mãi Tu hành đều thành vô ích, cũng như “gãi ngứa ngoài giày” mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/02/2013(Xem: 5515)
Cách đây gần 30 năm, ông Huang Funeng bị mù sau khi mắc căn bệnh thoái hóa mắt. Kể từ đó, vợ ông, bà Wei Guiyi, trở thành đôi mắt của chồng. Hình ảnh người vợ còng dùng gậy tre dắt chồng mù không còn xa lạ với người dân ở tỉnh Quảng Tây.
07/02/2013(Xem: 12745)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn Hoằng Pháp HT Thích Như Ðiển tại Âu Châu từ ngày 27-3-2013 đến 21-05-2013
06/02/2013(Xem: 4819)
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tấtcả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
04/02/2013(Xem: 7856)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 5720)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 6282)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 9592)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 6509)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 5739)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 6570)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567