Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

01/10/201208:30(Xem: 6136)
Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN
VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM
NGÀY THỨ NHÌ

Tịnh Thủy chuyển ngữ

Thekchen Choeling, Dharamsala, ngày 25 tháng 9 năm 2012 - Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma an tọa vào chỗ ngồi của Ngài, vị đại diện của đoàn Phât Tử đến từ Việt Nam đã dâng tặng Ngài một cây hoa thường được trồng trong các khuôn viên chùa ở Việt Nam. Ngài cảm ơn vị đại diện và bắt đầu cuộc nói chuyện,

2012_09_25_Vietnam_N03"Hôm qua, chủ đề chính của tôi là đạo đức thế gian và hôm nay tôi muốn nói một chút về Phật Pháp. Thông thường, khi tôi nói chuyện về Phật giáo, tôi muốn giải thích một cái gì đó về các tôn giáo khác trên thế giới để mọi người có thể đánh giá cao tính năng độc đáo của giáo lý đạo Phật. Các học giả lớn của trường Đại học cổ Ấn Độ University of Nalandanhư ngài Long Thọ, Thánh Thiên (Aryadeva), Phân Biệt Minh Bồ Tát (Bhavaviveka), Tịch Hộ (Shantarakshita), và ngài Kamalashila, đã so sánh quan điểm triết học Phật Giáo với quan điểm không phải triết học Phật giáo một cách rõ ràng. Tại Ấn Độ, những quan điểm của Phật Giáo thường không bị thách thức và cách mà các học giả bảo vệ quan điểm của Phật giáo là vô giá đối với chúng ta ngày hôm nay. "

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã so sánh các tranh luận về triết học của quá khứ, đến vai trò của khoa học ngày hôm nay. Ngài nhớ lại một người bạn Mỹ nhiều năm trước đây đã cảnh báo với Ngài là nên cẩn thận về ý tưởng nuôi dưỡng sở thích ngành khoa học, bởi vì cô cảm thấy rằng khoa học là một mối đe dọa với tôn giáo. Nhưng Ngài nghĩ rằng, "Không, khoa học là về kiến ​​thức, và mặc dù hai lĩnh vực hoạt động khác nhau, khoa học và Phật giáo đều đang tiến hành một cuộc điều tra về sự hiện thực (reality)". Cuộc đối thoại đã được tiến hành trong 30 năm hoặc lâu hơn giữa khoa học hiện đại và khoa học Phật giáo và cả hai bên cùng có lợi. Gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ladakh, một nhà giáo ở địa phương nói với Ngài rằng bài diễn thuyết của Ngài về Phật giáo khác với những điều ông ta thường nghe. Một trong những yếu tố có thể là các Lạt ma truyền thống đã coi như đó là điều đương nhiên “take it for granted”[1] từ những người Phật tử nghe pháp, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường thích làm theo những gì mà Ngài xem là thuộc truyền thống Nalanda khi dùng những quan điểm khác . Ngài cười khúc khích khi nhận xét như vậy,

"Tất nhiên, có những thách thức khác. Phương pháp tiếp cận của tôi chắc chắn không có tính cách phe phái, nhưng phái Shugden rất bè phái [2] và họ cáo buộc tôi bán cho truyền thống Gelug để làm hài lòng phái Nyingma [3]. Một trong những lý do tôi khuyến khích việc nghiên cứu các văn bản của các Tổ Sư Nalanda vì ở đó có mẫu số chung cho tất cả các truyền thống của chúng tôi. Trong khi đó, với việc nghiên cứu các văn bản của các bậc thầy Tây Tạng có một nguy cơ phát triển một sự thiên vị bè phái ".

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phác họa sự khác biệt giữa các truyền thống tâm linh không có nền triết học (thờ thần mặt trời, mặt trăng, lửa,..) với truyền thống tâm linh có nền triết học. Ở đây có thể được phân chia thành những người tin vào một đấng sáng tạo và những người không tin (vào đấng sáng tạo). Truyền thống tâm linh có nền triết học và tin tưởng vào một đấng sáng tạo bao gồm Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Hỏa Giáo (Zoroastrianism), đạo Sikh và Đạo giáo, trong khi các truyền thống tôn giáo không tin vào một đấng sáng tạo bao gồm một nhánh của Samkhyas, Kỳ Na giáo và Phật giáo. Trên thế giới có rất nhiều người khác nhau, sống ở những nơi khác nhau, môi trường khác nhau, và có những tâm tính khác nhau, do đó, cần có những truyền thống tâm linh khác nhau. Đối với một số người tin vào Thượng Đế là tuyệt vời, và với việc dâng hiến trọn vẹn lên Đức Chúa làm giảm bớt tính kiêu ngạo tự cho mình là trung tâm của vũ trụ. Người Phật Giáo giải quyết tự ngã của mình bằng cách phủ nhận sự tồn tại của một bản ngã, và phát triển lòng từ bi đến các chúng sinh khác.

2012_09_25_Vietnam_N02Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng trong số các giáo lý của Đức Phật, chúng ta thấy Ngài cũng trình bày nhiều quan điểm triết học khác nhau vào các dịp khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì Đức Phật thừa nhận khuynh hướng khác nhau giữa các môn đệ của mình và dạy cho phù hợp (khế lý và khế cơ). Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập đến hai truyền thống chính của Phật giáo nổi lên ở Ấn Độ, truyền thống Pali và Sanskrit, bởi vì ngôn ngữ, trong đó kinh điển được viết để truyền bá. [4]

"Truyền thống Pali hàm chứa các cơ bản của giáo lý đạo Phật, trong khi truyền thống Sanskrit bộc lộ rõ hơn nữa về cái Tâm. Bản chất của tâm là biết, nhưng cũng giống như bạn không thể nhìn thấy khi mắt bạn đang bị che mờ, do đó, cho đến khi nào tâm còn bị vô minh [5] che lấp, khả năng của tâm còn bị che mờ. Một khi vô minh với những cảm xúc tiêu cực được loại trừ khỏi tâm, tâm trí trở nên sáng suốt, thấy biết tất cả”.

"Như đã ghi lại trong truyền thống Pali, Đức Phật được sinh ra trong một gia đình hoàng gia, nhưng Ngài đã từ bỏ đời sống thế gian, nghiêm túc tham gia vào việc tu khổ hạnh trong sáu năm. Sau đó, Ngài đã thiền định để chuyển hóa tâm vô minh đạt được giác ngộ viên mãn.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng vô minh liên hệ đến những nhận thức sai lầm vốn tồn tại trong chúng ta, như là một kết quả do chúng ta phát triển sự dính mắc hoặc ác cảm với nó. Chúng ta có một cái nhìn méo mó về thực tại, nhưng khi điều tra và tìm kiếm một cái gì đó vốn tồn tại, chúng ta không thể tìm thấy nó. Tà kiến ​​liên kết chặt chẽ với những cảm xúc tiêu cực làm cho chúng ta gặp khó khăn; chính kiến, trong đó bao gồm việc loại trừ vô minh và là vấn đề của sự hiểu biết thực tại một cách chính xác hơn. Trong khi công việc của một giáo viên là giải thích, và các học sinh có nhiệm vụ phải khai triển về một sự hiểu biết về thực tại.

Đề cập đến ba môn học cấp cao (Tam Học), Giới, Định và Tuệ, là pháp cơ bản cho tất cả các pháp thực hành trong Phật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng giới luật hay là luật tắc của tu viện về cơ bản là giống nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit. Ngài nói về một cuộc họp mặt với hai nhà sư Miến Điện tại Quốc hội Tôn Giáo Thế Giớiở Úc, họ đã đồng ý rằng Ngài và họ theo cùng một Đức Bổn Sư, nhưng gợi ý rằng có sự khác biệt giữa họ. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với họ rằng người Tây Tạng cũng tuân theo Luật tạng theo truyền thống Hữu BộLuật của Da-du-la Nhất Thiết Hữu bộ (Mula-sarvastivada), họ rất ngạc nhiên và hài lòng. Nhắc lại Tam Học là như nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit, Ngài nói rõ rằng việc thực hành Tuệ, trong truyền thống Sanskrit liên quan đến việc sử dụng lý luận. Giải thích việc chấm dứt khổ đau, sự thật thứ ba trong bốn sự thật cao quý, có nghĩa là những gì được tìm thấy trong sự toàn thiện của Kinh Bát Nhã (Prajnaparamita or Perfection of Wisdom sutras) trong truyền thống Sanskrit. Những kinh điển này triệt để giải thích về Tánh Không (sự trống không của tâm) [6], bản chất của sự chấm dứt và làm thế nào để đạt được nó.

Kỷ luật của sự giải thoát cá nhân là nền tảng của truyền thống Pali. Nó cũng là cơ bản của truyền thống Sanskrit, nhưng (truyền thống Sanskrit) có thêm một mối quan tâm đến phúc lợi của người khác thể hiện như tâm thức tỉnh của bồ đề tâm với nguyện vọng vị tha đến giác ngộ. Thêm vào đó là truyền thống Kim Cang Thừa mà các khách của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Kim Cang Thừa cũng được thực hành tại Việt Nam. Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đó đã giải thích rằng, có những thách thức xem Đại Thừa, giáo lý của truyền thống Sanskrit, là những lời dạy của Đức Phật và cho rằng những vị Tổ Sư như Ngài Long Thọ đã thành lập và bảo vệ. Những câu hỏi lịch sử cũng đã được hỏi về việc liệu Kim Cang Thừa có được dạy bởi Đức Phật?. Vị Đại Sư vĩ đại của Ấn Độ như Long Thọ, Thánh Thiên và Chandrakirti đã viết rất nhiều về Kim Cang Thừa và bậc thầy vĩ đại, Ngài A Đề Sa (Atisha) đến Tây Tạng trong thế kỷ 11 truyền dạy và thực hành Kim Cang Thừa.

"Vì vậy," Ngài kết luận, "Phật giáo Tây Tạng là mô hình đầy đủ nhất của Phật giáo bởi vì nó có giới luật của truyền thống Pali làm cơ bản, thêm vào đó là giáo lý Bát Nhã và Luận Lý Phật giáo của truyền thống Sanskrit, cũng như việc thực hành Kim Cang Thừa tantra. "

2012_09_25_Vietnam_N01Trước khi thực hiện một lễ quy y đơn giản (cho đoàn Phật Tử Việt Nam) mà Ngài đã đồng ý, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích,

"Cấu trúc cơ bản của Phật Pháp là bốn chân lý cao quý. Theo luật nhân quả, nghiệp tích cực đưa đến hạnh phúc và nghiệp tiêu cực phát sinh đau khổ. Thập Nhị Nhân Duyên minh họa điều này và các bạn có thể nhìn thấy chúng được miêu tả trong hình ảnh của bánh xe luân hồi tại lối vào ngôi chùa. Vô Minh đưa đến nghiệp, để lại một dấu ấn vào tâm trí hay trong tầng sâu thẳm của ý thức (consciousness). Các mối dây tiếp theo đến mối dây cuối cùng là lão hóa và tử vong. Nếu chúng ta không muốn đau khổ, chúng ta phải phá vỡ chuỗi nghiệp lực, mà chúng ta làm bằng cách loại trừ vô minh. Chúng ta cần phải hiểu là bằng cách loại trừ vô minh trong tâm trí của chúng ta, chúng ta sẽ vượt thoát khổ đau. Khi chúng ta đã loại bỏ được vô minh là chúng ta thật sự chấm dứt khổ đau.

"Chúng ta quy y Phật, Pháp và Tăng bởi vì chúng giúp chúng ta thanh lọc những ô nhiễm của tâm chúng ta. Quy y Tam Bảo là lối vào Phật giáo. Khi chúng ta thực hiện điều này, cùng với tâm thức tỉnh của bồ đề tâm, chúng ta không chỉ tìm kiếm sự giải thoát của chính chúng ta, mà còn giải thoát cho chúng sinh khác. Và để có sự giúp đỡ lớn nhất đối với họ, chúng ta cần một tâm toàn giác. "

Sau đó, Ngài chủ lễ một buổi lễ Quy Y đơn giản (nương tựa vào Phật Pháp và Tăng) và khao khát để đạt được giác ngộ. Cuối cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Ngài thực hành cầu nguyện mỗi ngày và tìm thấy những điều rất hữu ích, tâm sự rằng Ngài chỉ bắt đầu thích thú thực hành ở tuổi 14, 15. Ngài khuyên rằng trong khi có những khía cạnh vật lý của thực tế và có những điều chúng ta nói, điều quan trọng nhất là thực hành ở mức độ tâm.

"Hãy đọc hai câu thơ này hàng ngày – quy y (nương tựa) và bồ đề tâm - và suy nghĩ về ý nghĩa của chúng. Nếu bạn có thể, giúp đỡ những người khác, và nếu bạn có thể ít nhất là không làm hại họ. Và khi bạn cảm thấy bạn đang giận dữ, cắn khớp ngón tay của bạn! "

Kết thúc buổi nói chuyện, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Ngài cho rằng trong cuộc đời này, Ngài có ba cam kết: đầu tiên là thúc đẩy các giá trị con người bằng cách nói chuyện về đạo đức thế gian, thứ hai là thúc đẩy sự hiểu biết và hòa hợp giữa các tôn giáo, và thứ ba, kể từ khi Ngài đã chuyển giao trách nhiệm chính trị của mình cho nhân dân Tây Tạng để họ bầu người lãnh đạo, là để khuyến khích các môn đệ của Đức Phật để trở thành Phật tử thế kỷ 21. Ngài nói rằng Ngài hy vọng bạn bè của mình cũng sẽ cảm thấy tự nhiên có khuynh hướng làm theo ba điều cam kết của Ngài.

Tịnh Thủy biên dịch

(theo dalailama.com)

Chú Thích của người biên dịch:

[1] Trong tiếng Anh có thành ngữ “take someone (or something) for granted” rất hay, mà tiếng Việt không có câu nào dịch ra chính xác. “take it for granted” tạm cưỡng dịch là “coi như đó là điều đương nhiên”, chỉ một thái độ không biết quý trọng, không biết ơn.

[2] Việc nghiên cứu về lịch sử tiết lộ rằng thực hành Shugden là thực hành có tính chất bộ phái mạnh mẽ, đã có một quá trình lịch sử trong việc góp phần vào xu thế bất hòa, chia rẽ trong nhiều bộ phận của Tây Tạng, và giữa những cộng đồng Tây Tạng với nhau. Vì thế, từ năm 1975 cho tới nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thường xuyên công khai bày tỏ quan điểm của ngài là mọi người không nên theo đuổi thực hành này..( /D_1-2_2-81_4-6752_5-50_6-4_17-340_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark)

[3] Hiện nay, Phật giáo Tây Tạng có bốn tông phái chính là Gelug (Cách-lỗ), Sakya (Tát-ca, Thích-ca, Tát-già), Kagyu (Ca-nhĩ-cư) và Nyingma (Ninh-mã) đang hoạt động mạnh tại Tây Tạng và các nước khác trên thế giới: (1)Trường phái Ninh mãcòn gọi là phái Mũ Đỏ là do đại sư Tịch Hộ thành lập. Đây là một trường phái Phật giáo lâu đời nhất của Tây Tạng và đã tiếp nhận năm điều của tín ngưỡng Bôn và cảm hóa đạo Bôn thành Phật giáo. Chủ trương của phái Mũ Đỏ là Mật tông pha lẫn Thiền tông của Trung Quốc. (2) Trường phái Ca nhĩ cưcòn gọi là phái Mũ Trắng do ngài Marpa (1012-1099) và đệ tử của ngài là Gampopa còn gọi là Dagpo Lhaje (1084-1161) thành lập. Tông phái này chú trọng về thiền định gọi là “Đại Pháp Ấn” (Mahamudra) và “khẩu truyền” từ thầy đến trò. Gyalwa Karmapa, Ogyen Trinley Dorje (sanh năm 1985) là vị Lạt Ma thứ 17 của tông phái này, (3) Trường phái Tát ca, còn gọi là phái Mũ Xám. Ngawang Kunga Theckchen Rimpoche (sanh năm 1945) hiện là Lạt ma cao nhất của phái này. (4) Trường phái Cách lỗ(Gelugpa): là trường phái Mũ Vàng do nhà cải cách Phật giáo, ngài Rinpoche Je Tsongkhapa (1357-1419) thành lập. Gelug cũng có nghĩa là giới luật nên tông phái này nhấn mạnh về quy củ giới điều. Phái Mũ Vàng đã có nhiều cống hiến lớn cho Phật giáo đặc biệt phái đã thành lập được truyền thống tái sanh nổi tiếng của các Đức Đạt Lai Lạt Ma.

[4] Đức Đạt Lai Lạt Ma thường dùng cụm từ Truyền Thống Pali và Truyền Thống Sanskrit. Truyền thống Pali thường được mọi người biết đến là Phật Giáo Nguyên Thủy vì dùng các văn bản bằng tiếng Pali. Truyền thống Sanskrit thường được biết đến là Phật Giáo Đại Thừa vì các văn bản sử dụng tiếng Sanskrit (Phạn ngữ). Đối với Kim Cang Thừa (Tantra), các văn bản lúc đầu dùng tiếng Sanskrit, nhưng ngày nay là tiếng Tây Tạng. Hiện nay nhiều Phật tử cố gắng không dùng cụm từ Phật Giáo Đại Thừa và Phật Giáo Tiểu Thừa mà gọi là Phật Giáo Theravada thay cho Phật Giáo Nguyên Thủy / Tiểu Thừa và Phật Giáo Bắc Truyền thay cho Phật Giáo Đại Thừa.

[5] Từ “vô minh”nói chung thì tiếng Sanskrit gọi là Avidya, tiếng Anh dịch là “ignorance” nghĩa của chữ này là “thiếu hiểu biết”. “Thiếu hiểu biết" ở đây không có nghĩa là thiếu sự hiểu biết mang lại từ sự học hỏi từ chương trong sách vở, hay sự thiếu hiểu biết mang tính cách thông thái của một nhà bác học mà là sự hiểu biết dựa vào những cảm nhận của giác quan, vào các quy ước và công thức. Nói một cách đơn giản thì ta có thể hiểu vô minh như là một cách "nhìn sai", “nhìn lầm lẫn”, hay "hiểu sai".

[6] Tánh Không tiếng Sanskrit gọi là Sunyata, chỉ định đặc tính hay bản chất trống không của mọi hiện tượng. Sunyata diễn đạt bằng tiếng Anh là Emptiness . Tánh Không không phải là không có cái gì cả, mà tánh Không là vì duyên sanh khởi. Tổ Long Thọ đã nói: Duyên Khởi chính là Tánh Không, bởi vì Tánh Không chẳng phải là nói sự vật không có hiện hữu, mà nói rằng chính vì sự vật hiện hữu tùy thuộc vào những nhân duyên điều kiện, nghĩa là tùy thuộc vào các thứ ngoài nó mà sinh ra, cho nên không thể hiện hữu độc lập, không tồn tại thực sự và không có tự tánh. Hiểu Tánh Không tức là hiểu Duyên Khởi, là tùy duyên mà sinh ra.

Xem bài trước Ngày Thứ Nhất: ● ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM -Ngày Thứ Nhất

 


(CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GIẢ)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16024)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3709)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6081)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6271)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3970)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8308)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5594)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15585)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10826)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7912)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]