Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

01/10/201208:30(Xem: 6171)
Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN
VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM
NGÀY THỨ NHÌ

Tịnh Thủy chuyển ngữ

Thekchen Choeling, Dharamsala, ngày 25 tháng 9 năm 2012 - Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma an tọa vào chỗ ngồi của Ngài, vị đại diện của đoàn Phât Tử đến từ Việt Nam đã dâng tặng Ngài một cây hoa thường được trồng trong các khuôn viên chùa ở Việt Nam. Ngài cảm ơn vị đại diện và bắt đầu cuộc nói chuyện,

2012_09_25_Vietnam_N03"Hôm qua, chủ đề chính của tôi là đạo đức thế gian và hôm nay tôi muốn nói một chút về Phật Pháp. Thông thường, khi tôi nói chuyện về Phật giáo, tôi muốn giải thích một cái gì đó về các tôn giáo khác trên thế giới để mọi người có thể đánh giá cao tính năng độc đáo của giáo lý đạo Phật. Các học giả lớn của trường Đại học cổ Ấn Độ University of Nalandanhư ngài Long Thọ, Thánh Thiên (Aryadeva), Phân Biệt Minh Bồ Tát (Bhavaviveka), Tịch Hộ (Shantarakshita), và ngài Kamalashila, đã so sánh quan điểm triết học Phật Giáo với quan điểm không phải triết học Phật giáo một cách rõ ràng. Tại Ấn Độ, những quan điểm của Phật Giáo thường không bị thách thức và cách mà các học giả bảo vệ quan điểm của Phật giáo là vô giá đối với chúng ta ngày hôm nay. "

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã so sánh các tranh luận về triết học của quá khứ, đến vai trò của khoa học ngày hôm nay. Ngài nhớ lại một người bạn Mỹ nhiều năm trước đây đã cảnh báo với Ngài là nên cẩn thận về ý tưởng nuôi dưỡng sở thích ngành khoa học, bởi vì cô cảm thấy rằng khoa học là một mối đe dọa với tôn giáo. Nhưng Ngài nghĩ rằng, "Không, khoa học là về kiến ​​thức, và mặc dù hai lĩnh vực hoạt động khác nhau, khoa học và Phật giáo đều đang tiến hành một cuộc điều tra về sự hiện thực (reality)". Cuộc đối thoại đã được tiến hành trong 30 năm hoặc lâu hơn giữa khoa học hiện đại và khoa học Phật giáo và cả hai bên cùng có lợi. Gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ladakh, một nhà giáo ở địa phương nói với Ngài rằng bài diễn thuyết của Ngài về Phật giáo khác với những điều ông ta thường nghe. Một trong những yếu tố có thể là các Lạt ma truyền thống đã coi như đó là điều đương nhiên “take it for granted”[1] từ những người Phật tử nghe pháp, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường thích làm theo những gì mà Ngài xem là thuộc truyền thống Nalanda khi dùng những quan điểm khác . Ngài cười khúc khích khi nhận xét như vậy,

"Tất nhiên, có những thách thức khác. Phương pháp tiếp cận của tôi chắc chắn không có tính cách phe phái, nhưng phái Shugden rất bè phái [2] và họ cáo buộc tôi bán cho truyền thống Gelug để làm hài lòng phái Nyingma [3]. Một trong những lý do tôi khuyến khích việc nghiên cứu các văn bản của các Tổ Sư Nalanda vì ở đó có mẫu số chung cho tất cả các truyền thống của chúng tôi. Trong khi đó, với việc nghiên cứu các văn bản của các bậc thầy Tây Tạng có một nguy cơ phát triển một sự thiên vị bè phái ".

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phác họa sự khác biệt giữa các truyền thống tâm linh không có nền triết học (thờ thần mặt trời, mặt trăng, lửa,..) với truyền thống tâm linh có nền triết học. Ở đây có thể được phân chia thành những người tin vào một đấng sáng tạo và những người không tin (vào đấng sáng tạo). Truyền thống tâm linh có nền triết học và tin tưởng vào một đấng sáng tạo bao gồm Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Hỏa Giáo (Zoroastrianism), đạo Sikh và Đạo giáo, trong khi các truyền thống tôn giáo không tin vào một đấng sáng tạo bao gồm một nhánh của Samkhyas, Kỳ Na giáo và Phật giáo. Trên thế giới có rất nhiều người khác nhau, sống ở những nơi khác nhau, môi trường khác nhau, và có những tâm tính khác nhau, do đó, cần có những truyền thống tâm linh khác nhau. Đối với một số người tin vào Thượng Đế là tuyệt vời, và với việc dâng hiến trọn vẹn lên Đức Chúa làm giảm bớt tính kiêu ngạo tự cho mình là trung tâm của vũ trụ. Người Phật Giáo giải quyết tự ngã của mình bằng cách phủ nhận sự tồn tại của một bản ngã, và phát triển lòng từ bi đến các chúng sinh khác.

2012_09_25_Vietnam_N02Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng trong số các giáo lý của Đức Phật, chúng ta thấy Ngài cũng trình bày nhiều quan điểm triết học khác nhau vào các dịp khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì Đức Phật thừa nhận khuynh hướng khác nhau giữa các môn đệ của mình và dạy cho phù hợp (khế lý và khế cơ). Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập đến hai truyền thống chính của Phật giáo nổi lên ở Ấn Độ, truyền thống Pali và Sanskrit, bởi vì ngôn ngữ, trong đó kinh điển được viết để truyền bá. [4]

"Truyền thống Pali hàm chứa các cơ bản của giáo lý đạo Phật, trong khi truyền thống Sanskrit bộc lộ rõ hơn nữa về cái Tâm. Bản chất của tâm là biết, nhưng cũng giống như bạn không thể nhìn thấy khi mắt bạn đang bị che mờ, do đó, cho đến khi nào tâm còn bị vô minh [5] che lấp, khả năng của tâm còn bị che mờ. Một khi vô minh với những cảm xúc tiêu cực được loại trừ khỏi tâm, tâm trí trở nên sáng suốt, thấy biết tất cả”.

"Như đã ghi lại trong truyền thống Pali, Đức Phật được sinh ra trong một gia đình hoàng gia, nhưng Ngài đã từ bỏ đời sống thế gian, nghiêm túc tham gia vào việc tu khổ hạnh trong sáu năm. Sau đó, Ngài đã thiền định để chuyển hóa tâm vô minh đạt được giác ngộ viên mãn.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng vô minh liên hệ đến những nhận thức sai lầm vốn tồn tại trong chúng ta, như là một kết quả do chúng ta phát triển sự dính mắc hoặc ác cảm với nó. Chúng ta có một cái nhìn méo mó về thực tại, nhưng khi điều tra và tìm kiếm một cái gì đó vốn tồn tại, chúng ta không thể tìm thấy nó. Tà kiến ​​liên kết chặt chẽ với những cảm xúc tiêu cực làm cho chúng ta gặp khó khăn; chính kiến, trong đó bao gồm việc loại trừ vô minh và là vấn đề của sự hiểu biết thực tại một cách chính xác hơn. Trong khi công việc của một giáo viên là giải thích, và các học sinh có nhiệm vụ phải khai triển về một sự hiểu biết về thực tại.

Đề cập đến ba môn học cấp cao (Tam Học), Giới, Định và Tuệ, là pháp cơ bản cho tất cả các pháp thực hành trong Phật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng giới luật hay là luật tắc của tu viện về cơ bản là giống nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit. Ngài nói về một cuộc họp mặt với hai nhà sư Miến Điện tại Quốc hội Tôn Giáo Thế Giớiở Úc, họ đã đồng ý rằng Ngài và họ theo cùng một Đức Bổn Sư, nhưng gợi ý rằng có sự khác biệt giữa họ. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với họ rằng người Tây Tạng cũng tuân theo Luật tạng theo truyền thống Hữu BộLuật của Da-du-la Nhất Thiết Hữu bộ (Mula-sarvastivada), họ rất ngạc nhiên và hài lòng. Nhắc lại Tam Học là như nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit, Ngài nói rõ rằng việc thực hành Tuệ, trong truyền thống Sanskrit liên quan đến việc sử dụng lý luận. Giải thích việc chấm dứt khổ đau, sự thật thứ ba trong bốn sự thật cao quý, có nghĩa là những gì được tìm thấy trong sự toàn thiện của Kinh Bát Nhã (Prajnaparamita or Perfection of Wisdom sutras) trong truyền thống Sanskrit. Những kinh điển này triệt để giải thích về Tánh Không (sự trống không của tâm) [6], bản chất của sự chấm dứt và làm thế nào để đạt được nó.

Kỷ luật của sự giải thoát cá nhân là nền tảng của truyền thống Pali. Nó cũng là cơ bản của truyền thống Sanskrit, nhưng (truyền thống Sanskrit) có thêm một mối quan tâm đến phúc lợi của người khác thể hiện như tâm thức tỉnh của bồ đề tâm với nguyện vọng vị tha đến giác ngộ. Thêm vào đó là truyền thống Kim Cang Thừa mà các khách của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Kim Cang Thừa cũng được thực hành tại Việt Nam. Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đó đã giải thích rằng, có những thách thức xem Đại Thừa, giáo lý của truyền thống Sanskrit, là những lời dạy của Đức Phật và cho rằng những vị Tổ Sư như Ngài Long Thọ đã thành lập và bảo vệ. Những câu hỏi lịch sử cũng đã được hỏi về việc liệu Kim Cang Thừa có được dạy bởi Đức Phật?. Vị Đại Sư vĩ đại của Ấn Độ như Long Thọ, Thánh Thiên và Chandrakirti đã viết rất nhiều về Kim Cang Thừa và bậc thầy vĩ đại, Ngài A Đề Sa (Atisha) đến Tây Tạng trong thế kỷ 11 truyền dạy và thực hành Kim Cang Thừa.

"Vì vậy," Ngài kết luận, "Phật giáo Tây Tạng là mô hình đầy đủ nhất của Phật giáo bởi vì nó có giới luật của truyền thống Pali làm cơ bản, thêm vào đó là giáo lý Bát Nhã và Luận Lý Phật giáo của truyền thống Sanskrit, cũng như việc thực hành Kim Cang Thừa tantra. "

2012_09_25_Vietnam_N01Trước khi thực hiện một lễ quy y đơn giản (cho đoàn Phật Tử Việt Nam) mà Ngài đã đồng ý, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích,

"Cấu trúc cơ bản của Phật Pháp là bốn chân lý cao quý. Theo luật nhân quả, nghiệp tích cực đưa đến hạnh phúc và nghiệp tiêu cực phát sinh đau khổ. Thập Nhị Nhân Duyên minh họa điều này và các bạn có thể nhìn thấy chúng được miêu tả trong hình ảnh của bánh xe luân hồi tại lối vào ngôi chùa. Vô Minh đưa đến nghiệp, để lại một dấu ấn vào tâm trí hay trong tầng sâu thẳm của ý thức (consciousness). Các mối dây tiếp theo đến mối dây cuối cùng là lão hóa và tử vong. Nếu chúng ta không muốn đau khổ, chúng ta phải phá vỡ chuỗi nghiệp lực, mà chúng ta làm bằng cách loại trừ vô minh. Chúng ta cần phải hiểu là bằng cách loại trừ vô minh trong tâm trí của chúng ta, chúng ta sẽ vượt thoát khổ đau. Khi chúng ta đã loại bỏ được vô minh là chúng ta thật sự chấm dứt khổ đau.

"Chúng ta quy y Phật, Pháp và Tăng bởi vì chúng giúp chúng ta thanh lọc những ô nhiễm của tâm chúng ta. Quy y Tam Bảo là lối vào Phật giáo. Khi chúng ta thực hiện điều này, cùng với tâm thức tỉnh của bồ đề tâm, chúng ta không chỉ tìm kiếm sự giải thoát của chính chúng ta, mà còn giải thoát cho chúng sinh khác. Và để có sự giúp đỡ lớn nhất đối với họ, chúng ta cần một tâm toàn giác. "

Sau đó, Ngài chủ lễ một buổi lễ Quy Y đơn giản (nương tựa vào Phật Pháp và Tăng) và khao khát để đạt được giác ngộ. Cuối cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Ngài thực hành cầu nguyện mỗi ngày và tìm thấy những điều rất hữu ích, tâm sự rằng Ngài chỉ bắt đầu thích thú thực hành ở tuổi 14, 15. Ngài khuyên rằng trong khi có những khía cạnh vật lý của thực tế và có những điều chúng ta nói, điều quan trọng nhất là thực hành ở mức độ tâm.

"Hãy đọc hai câu thơ này hàng ngày – quy y (nương tựa) và bồ đề tâm - và suy nghĩ về ý nghĩa của chúng. Nếu bạn có thể, giúp đỡ những người khác, và nếu bạn có thể ít nhất là không làm hại họ. Và khi bạn cảm thấy bạn đang giận dữ, cắn khớp ngón tay của bạn! "

Kết thúc buổi nói chuyện, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Ngài cho rằng trong cuộc đời này, Ngài có ba cam kết: đầu tiên là thúc đẩy các giá trị con người bằng cách nói chuyện về đạo đức thế gian, thứ hai là thúc đẩy sự hiểu biết và hòa hợp giữa các tôn giáo, và thứ ba, kể từ khi Ngài đã chuyển giao trách nhiệm chính trị của mình cho nhân dân Tây Tạng để họ bầu người lãnh đạo, là để khuyến khích các môn đệ của Đức Phật để trở thành Phật tử thế kỷ 21. Ngài nói rằng Ngài hy vọng bạn bè của mình cũng sẽ cảm thấy tự nhiên có khuynh hướng làm theo ba điều cam kết của Ngài.

Tịnh Thủy biên dịch

(theo dalailama.com)

Chú Thích của người biên dịch:

[1] Trong tiếng Anh có thành ngữ “take someone (or something) for granted” rất hay, mà tiếng Việt không có câu nào dịch ra chính xác. “take it for granted” tạm cưỡng dịch là “coi như đó là điều đương nhiên”, chỉ một thái độ không biết quý trọng, không biết ơn.

[2] Việc nghiên cứu về lịch sử tiết lộ rằng thực hành Shugden là thực hành có tính chất bộ phái mạnh mẽ, đã có một quá trình lịch sử trong việc góp phần vào xu thế bất hòa, chia rẽ trong nhiều bộ phận của Tây Tạng, và giữa những cộng đồng Tây Tạng với nhau. Vì thế, từ năm 1975 cho tới nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thường xuyên công khai bày tỏ quan điểm của ngài là mọi người không nên theo đuổi thực hành này..( /D_1-2_2-81_4-6752_5-50_6-4_17-340_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark)

[3] Hiện nay, Phật giáo Tây Tạng có bốn tông phái chính là Gelug (Cách-lỗ), Sakya (Tát-ca, Thích-ca, Tát-già), Kagyu (Ca-nhĩ-cư) và Nyingma (Ninh-mã) đang hoạt động mạnh tại Tây Tạng và các nước khác trên thế giới: (1)Trường phái Ninh mãcòn gọi là phái Mũ Đỏ là do đại sư Tịch Hộ thành lập. Đây là một trường phái Phật giáo lâu đời nhất của Tây Tạng và đã tiếp nhận năm điều của tín ngưỡng Bôn và cảm hóa đạo Bôn thành Phật giáo. Chủ trương của phái Mũ Đỏ là Mật tông pha lẫn Thiền tông của Trung Quốc. (2) Trường phái Ca nhĩ cưcòn gọi là phái Mũ Trắng do ngài Marpa (1012-1099) và đệ tử của ngài là Gampopa còn gọi là Dagpo Lhaje (1084-1161) thành lập. Tông phái này chú trọng về thiền định gọi là “Đại Pháp Ấn” (Mahamudra) và “khẩu truyền” từ thầy đến trò. Gyalwa Karmapa, Ogyen Trinley Dorje (sanh năm 1985) là vị Lạt Ma thứ 17 của tông phái này, (3) Trường phái Tát ca, còn gọi là phái Mũ Xám. Ngawang Kunga Theckchen Rimpoche (sanh năm 1945) hiện là Lạt ma cao nhất của phái này. (4) Trường phái Cách lỗ(Gelugpa): là trường phái Mũ Vàng do nhà cải cách Phật giáo, ngài Rinpoche Je Tsongkhapa (1357-1419) thành lập. Gelug cũng có nghĩa là giới luật nên tông phái này nhấn mạnh về quy củ giới điều. Phái Mũ Vàng đã có nhiều cống hiến lớn cho Phật giáo đặc biệt phái đã thành lập được truyền thống tái sanh nổi tiếng của các Đức Đạt Lai Lạt Ma.

[4] Đức Đạt Lai Lạt Ma thường dùng cụm từ Truyền Thống Pali và Truyền Thống Sanskrit. Truyền thống Pali thường được mọi người biết đến là Phật Giáo Nguyên Thủy vì dùng các văn bản bằng tiếng Pali. Truyền thống Sanskrit thường được biết đến là Phật Giáo Đại Thừa vì các văn bản sử dụng tiếng Sanskrit (Phạn ngữ). Đối với Kim Cang Thừa (Tantra), các văn bản lúc đầu dùng tiếng Sanskrit, nhưng ngày nay là tiếng Tây Tạng. Hiện nay nhiều Phật tử cố gắng không dùng cụm từ Phật Giáo Đại Thừa và Phật Giáo Tiểu Thừa mà gọi là Phật Giáo Theravada thay cho Phật Giáo Nguyên Thủy / Tiểu Thừa và Phật Giáo Bắc Truyền thay cho Phật Giáo Đại Thừa.

[5] Từ “vô minh”nói chung thì tiếng Sanskrit gọi là Avidya, tiếng Anh dịch là “ignorance” nghĩa của chữ này là “thiếu hiểu biết”. “Thiếu hiểu biết" ở đây không có nghĩa là thiếu sự hiểu biết mang lại từ sự học hỏi từ chương trong sách vở, hay sự thiếu hiểu biết mang tính cách thông thái của một nhà bác học mà là sự hiểu biết dựa vào những cảm nhận của giác quan, vào các quy ước và công thức. Nói một cách đơn giản thì ta có thể hiểu vô minh như là một cách "nhìn sai", “nhìn lầm lẫn”, hay "hiểu sai".

[6] Tánh Không tiếng Sanskrit gọi là Sunyata, chỉ định đặc tính hay bản chất trống không của mọi hiện tượng. Sunyata diễn đạt bằng tiếng Anh là Emptiness . Tánh Không không phải là không có cái gì cả, mà tánh Không là vì duyên sanh khởi. Tổ Long Thọ đã nói: Duyên Khởi chính là Tánh Không, bởi vì Tánh Không chẳng phải là nói sự vật không có hiện hữu, mà nói rằng chính vì sự vật hiện hữu tùy thuộc vào những nhân duyên điều kiện, nghĩa là tùy thuộc vào các thứ ngoài nó mà sinh ra, cho nên không thể hiện hữu độc lập, không tồn tại thực sự và không có tự tánh. Hiểu Tánh Không tức là hiểu Duyên Khởi, là tùy duyên mà sinh ra.

Xem bài trước Ngày Thứ Nhất: ● ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM -Ngày Thứ Nhất

 


(CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GIẢ)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2015(Xem: 7980)
Từ khi lộ ánh trăng thiền Tri ân sâu nặng cơ duyên cuộc đời Vô ngôn sáng giữa muôn lời Dấn thân thế sự, chẳng rời Tánh Không. ---
23/03/2015(Xem: 9458)
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập. Trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc, các cư sĩ có vai trò rất tích cực trong việc học và hoằng dương đạo Phật, trải qua nhiều thời đại đã xuất hiện không ít những vị cư sĩ có cống hiến lớn lao với đạo. Đến thời nhà Thanh, do mạng mạch truyền thừa bị gián đoạn do đó khiến Phật Giáo suy yếu. Sau đó có cư sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật giáo. Tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển, mở trường lớp, nghiên cứu Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật giáo, đó chính là thời kỳ đầu phát triển của Cư sĩ Phật giáo.
20/03/2015(Xem: 9144)
Nhà sư Alan Piercey là một tu sĩ Phật giáo làm việc tại bệnh viện ở Burnie và cũng từng tham gia bán chocolate để gây quỹ. Đối với những cư dân ở bờ biển Tây bắc Burnie (Tasmania, Úc), thầy được biết đến với nhiều tên gọi, nhưng cái tên phổ biến nhất được lấy từ một bộ phim hoạt hình nổi tiếng. “Pháp danh tôi là Shih Jingang” (phát âm là Cher Gin Gun) - thầy nói. “Thế nhưng hầu hết mọi người sống quanh bệnh viện khu vực Tây bắc tại Burnie này gọi tôi là Sifu (sư phụ).
19/03/2015(Xem: 7527)
Đây không phải là lần đầu tiên tôi được Thọ Bát, được làm “Ni Cô chải tóc bên dòng suối“ một ngày một đêm đâu các bạn ạ! Từ bao năm nay hễ chùa Linh Thứu có lên lịch trình Thọ Bát là có mặt tôi, cho dù ngày ấy tuyết phủ ngập chùa, hay mưa dầm giăng lối. Nhưng chẳng bao giờ tôi tu trọn vẹn được đầy đủ 24 giờ tinh khôi cả, cứ buổi cháo chiều vừa dùng xong tôi đã tìm đường ra xe về nhà để sáng mai lên chùa sớm cho kịp buổi công phu khuya. Hay nhiều khi không thể tham dự được tôi cũng cố lên chùa nghe cho được bài Pháp mới thật hả dạ. Tất cả cũng chỉ vì Gia Duyên còn ràng buộc như câu các Thầy truyền giới vẫn thường đọc trong những buổi Thọ Bát Quan Trai, nên sự thể mới như vậy mà thôi.
19/03/2015(Xem: 6996)
Những Nguyên Nhân Của Hành Động Nầy các Tỳ Kheo, có ba nguyên nhân bắt nguồn của hành động. Ba nguyên nhân nầy là ba nguyên nhân gì? Đó là: lòng tham lam, lòng thù hận, và sự si mê (tham, sân, si). [32] Một hành động khi làm với lòng tham lam, sinh ra từ lòng tham lam, gây ra bởi lòng tham lam, phát sinh ra từ lòng tham lam, sẽ chín muồi bất cứ nơi nào người nầy tái sinh; và bất cứ khi nào hành động chín muồi, người nầy nhận lấy kết quả của hành động, ở trong đời nầy, hoặc là trong đời sau, hoặc là trong những đời kế tiếp sau đó. [33]
19/03/2015(Xem: 7600)
Theo quan điểm của Phật giáo “hạnh phúc” là sự đoạn trừ tâm tham ái, để hiểu rõ vấn đề này, người viết xin chia sẻ quý vị quan điểm này như sau: Chúng ta đang sống trong cõi Ta-bà như mảnh vườn hoang luôn bị chế ngự bởi dục vọng khổ đau, bệnh tật, sầu hận, chết chóc… Con người bao giờ cũng muốn vươn lên từ đời sống thấp hèn để tìm một cái gì đó cao đẹp và an lạc hơn đằng sau bức tường đầy sự hấp dẫn của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà con người cảm nhận qua tri giác hay còn gọi là tham ái.
15/03/2015(Xem: 6242)
Tôi có hai người bạn. Là bạn nhưng họ trẻ hơn tôi quãng chục tuổi. Là bạn vì chúng tôi khá quý mến nhau, có nhiều điểm tương đồng và hay sinh hoạt bên nhau. Tên khai sinh của họ là Châu Thương và Mỹ Hằng. Pháp danh của hai bạn này là Nguyên Niệm là Thánh Đức. Điểm thú vị rằng đây lại là một cặp vợ chồng.
14/03/2015(Xem: 8301)
Việc tu hành trên hết là để giải tỏa áp lực của tâm lý. Và áp lực đó nếu nghĩ theo cách thông thường, thì nó luôn đến từ ngoại giới. Vì chúng ta sống trong đời sống, mà không có một tấm lòng để gió cuốn đi. Mà chúng ta chỉ sống với nhau luôn bằng tham, sân, si, cho nên áp lực sẽ đến với chúng ta liên tục là đương nhiên. Nhưng nếu chúng ta quanh năm ngồi một chỗ không đi đâu cả, thì tâm lý vẫn có vấn đề khó khăn như thường. Đó là do chúng ta luôn sống trong vọng tưởng, và ảo tưởng mà thành ra như thế thôi.
13/03/2015(Xem: 9699)
Chánh Niệm cho Tình Yêu Bài của Đỗ Thiền Đăng Diễn đọc: Trọng Nghĩa - Mộng Lan
12/03/2015(Xem: 10159)
Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]