Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

01/10/201208:30(Xem: 6322)
Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN
VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM
NGÀY THỨ NHÌ

Tịnh Thủy chuyển ngữ

Thekchen Choeling, Dharamsala, ngày 25 tháng 9 năm 2012 - Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma an tọa vào chỗ ngồi của Ngài, vị đại diện của đoàn Phât Tử đến từ Việt Nam đã dâng tặng Ngài một cây hoa thường được trồng trong các khuôn viên chùa ở Việt Nam. Ngài cảm ơn vị đại diện và bắt đầu cuộc nói chuyện,

2012_09_25_Vietnam_N03"Hôm qua, chủ đề chính của tôi là đạo đức thế gian và hôm nay tôi muốn nói một chút về Phật Pháp. Thông thường, khi tôi nói chuyện về Phật giáo, tôi muốn giải thích một cái gì đó về các tôn giáo khác trên thế giới để mọi người có thể đánh giá cao tính năng độc đáo của giáo lý đạo Phật. Các học giả lớn của trường Đại học cổ Ấn Độ University of Nalandanhư ngài Long Thọ, Thánh Thiên (Aryadeva), Phân Biệt Minh Bồ Tát (Bhavaviveka), Tịch Hộ (Shantarakshita), và ngài Kamalashila, đã so sánh quan điểm triết học Phật Giáo với quan điểm không phải triết học Phật giáo một cách rõ ràng. Tại Ấn Độ, những quan điểm của Phật Giáo thường không bị thách thức và cách mà các học giả bảo vệ quan điểm của Phật giáo là vô giá đối với chúng ta ngày hôm nay. "

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã so sánh các tranh luận về triết học của quá khứ, đến vai trò của khoa học ngày hôm nay. Ngài nhớ lại một người bạn Mỹ nhiều năm trước đây đã cảnh báo với Ngài là nên cẩn thận về ý tưởng nuôi dưỡng sở thích ngành khoa học, bởi vì cô cảm thấy rằng khoa học là một mối đe dọa với tôn giáo. Nhưng Ngài nghĩ rằng, "Không, khoa học là về kiến ​​thức, và mặc dù hai lĩnh vực hoạt động khác nhau, khoa học và Phật giáo đều đang tiến hành một cuộc điều tra về sự hiện thực (reality)". Cuộc đối thoại đã được tiến hành trong 30 năm hoặc lâu hơn giữa khoa học hiện đại và khoa học Phật giáo và cả hai bên cùng có lợi. Gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ladakh, một nhà giáo ở địa phương nói với Ngài rằng bài diễn thuyết của Ngài về Phật giáo khác với những điều ông ta thường nghe. Một trong những yếu tố có thể là các Lạt ma truyền thống đã coi như đó là điều đương nhiên “take it for granted”[1] từ những người Phật tử nghe pháp, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường thích làm theo những gì mà Ngài xem là thuộc truyền thống Nalanda khi dùng những quan điểm khác . Ngài cười khúc khích khi nhận xét như vậy,

"Tất nhiên, có những thách thức khác. Phương pháp tiếp cận của tôi chắc chắn không có tính cách phe phái, nhưng phái Shugden rất bè phái [2] và họ cáo buộc tôi bán cho truyền thống Gelug để làm hài lòng phái Nyingma [3]. Một trong những lý do tôi khuyến khích việc nghiên cứu các văn bản của các Tổ Sư Nalanda vì ở đó có mẫu số chung cho tất cả các truyền thống của chúng tôi. Trong khi đó, với việc nghiên cứu các văn bản của các bậc thầy Tây Tạng có một nguy cơ phát triển một sự thiên vị bè phái ".

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phác họa sự khác biệt giữa các truyền thống tâm linh không có nền triết học (thờ thần mặt trời, mặt trăng, lửa,..) với truyền thống tâm linh có nền triết học. Ở đây có thể được phân chia thành những người tin vào một đấng sáng tạo và những người không tin (vào đấng sáng tạo). Truyền thống tâm linh có nền triết học và tin tưởng vào một đấng sáng tạo bao gồm Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Hỏa Giáo (Zoroastrianism), đạo Sikh và Đạo giáo, trong khi các truyền thống tôn giáo không tin vào một đấng sáng tạo bao gồm một nhánh của Samkhyas, Kỳ Na giáo và Phật giáo. Trên thế giới có rất nhiều người khác nhau, sống ở những nơi khác nhau, môi trường khác nhau, và có những tâm tính khác nhau, do đó, cần có những truyền thống tâm linh khác nhau. Đối với một số người tin vào Thượng Đế là tuyệt vời, và với việc dâng hiến trọn vẹn lên Đức Chúa làm giảm bớt tính kiêu ngạo tự cho mình là trung tâm của vũ trụ. Người Phật Giáo giải quyết tự ngã của mình bằng cách phủ nhận sự tồn tại của một bản ngã, và phát triển lòng từ bi đến các chúng sinh khác.

2012_09_25_Vietnam_N02Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng trong số các giáo lý của Đức Phật, chúng ta thấy Ngài cũng trình bày nhiều quan điểm triết học khác nhau vào các dịp khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì Đức Phật thừa nhận khuynh hướng khác nhau giữa các môn đệ của mình và dạy cho phù hợp (khế lý và khế cơ). Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập đến hai truyền thống chính của Phật giáo nổi lên ở Ấn Độ, truyền thống Pali và Sanskrit, bởi vì ngôn ngữ, trong đó kinh điển được viết để truyền bá. [4]

"Truyền thống Pali hàm chứa các cơ bản của giáo lý đạo Phật, trong khi truyền thống Sanskrit bộc lộ rõ hơn nữa về cái Tâm. Bản chất của tâm là biết, nhưng cũng giống như bạn không thể nhìn thấy khi mắt bạn đang bị che mờ, do đó, cho đến khi nào tâm còn bị vô minh [5] che lấp, khả năng của tâm còn bị che mờ. Một khi vô minh với những cảm xúc tiêu cực được loại trừ khỏi tâm, tâm trí trở nên sáng suốt, thấy biết tất cả”.

"Như đã ghi lại trong truyền thống Pali, Đức Phật được sinh ra trong một gia đình hoàng gia, nhưng Ngài đã từ bỏ đời sống thế gian, nghiêm túc tham gia vào việc tu khổ hạnh trong sáu năm. Sau đó, Ngài đã thiền định để chuyển hóa tâm vô minh đạt được giác ngộ viên mãn.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng vô minh liên hệ đến những nhận thức sai lầm vốn tồn tại trong chúng ta, như là một kết quả do chúng ta phát triển sự dính mắc hoặc ác cảm với nó. Chúng ta có một cái nhìn méo mó về thực tại, nhưng khi điều tra và tìm kiếm một cái gì đó vốn tồn tại, chúng ta không thể tìm thấy nó. Tà kiến ​​liên kết chặt chẽ với những cảm xúc tiêu cực làm cho chúng ta gặp khó khăn; chính kiến, trong đó bao gồm việc loại trừ vô minh và là vấn đề của sự hiểu biết thực tại một cách chính xác hơn. Trong khi công việc của một giáo viên là giải thích, và các học sinh có nhiệm vụ phải khai triển về một sự hiểu biết về thực tại.

Đề cập đến ba môn học cấp cao (Tam Học), Giới, Định và Tuệ, là pháp cơ bản cho tất cả các pháp thực hành trong Phật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng giới luật hay là luật tắc của tu viện về cơ bản là giống nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit. Ngài nói về một cuộc họp mặt với hai nhà sư Miến Điện tại Quốc hội Tôn Giáo Thế Giớiở Úc, họ đã đồng ý rằng Ngài và họ theo cùng một Đức Bổn Sư, nhưng gợi ý rằng có sự khác biệt giữa họ. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với họ rằng người Tây Tạng cũng tuân theo Luật tạng theo truyền thống Hữu BộLuật của Da-du-la Nhất Thiết Hữu bộ (Mula-sarvastivada), họ rất ngạc nhiên và hài lòng. Nhắc lại Tam Học là như nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit, Ngài nói rõ rằng việc thực hành Tuệ, trong truyền thống Sanskrit liên quan đến việc sử dụng lý luận. Giải thích việc chấm dứt khổ đau, sự thật thứ ba trong bốn sự thật cao quý, có nghĩa là những gì được tìm thấy trong sự toàn thiện của Kinh Bát Nhã (Prajnaparamita or Perfection of Wisdom sutras) trong truyền thống Sanskrit. Những kinh điển này triệt để giải thích về Tánh Không (sự trống không của tâm) [6], bản chất của sự chấm dứt và làm thế nào để đạt được nó.

Kỷ luật của sự giải thoát cá nhân là nền tảng của truyền thống Pali. Nó cũng là cơ bản của truyền thống Sanskrit, nhưng (truyền thống Sanskrit) có thêm một mối quan tâm đến phúc lợi của người khác thể hiện như tâm thức tỉnh của bồ đề tâm với nguyện vọng vị tha đến giác ngộ. Thêm vào đó là truyền thống Kim Cang Thừa mà các khách của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Kim Cang Thừa cũng được thực hành tại Việt Nam. Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đó đã giải thích rằng, có những thách thức xem Đại Thừa, giáo lý của truyền thống Sanskrit, là những lời dạy của Đức Phật và cho rằng những vị Tổ Sư như Ngài Long Thọ đã thành lập và bảo vệ. Những câu hỏi lịch sử cũng đã được hỏi về việc liệu Kim Cang Thừa có được dạy bởi Đức Phật?. Vị Đại Sư vĩ đại của Ấn Độ như Long Thọ, Thánh Thiên và Chandrakirti đã viết rất nhiều về Kim Cang Thừa và bậc thầy vĩ đại, Ngài A Đề Sa (Atisha) đến Tây Tạng trong thế kỷ 11 truyền dạy và thực hành Kim Cang Thừa.

"Vì vậy," Ngài kết luận, "Phật giáo Tây Tạng là mô hình đầy đủ nhất của Phật giáo bởi vì nó có giới luật của truyền thống Pali làm cơ bản, thêm vào đó là giáo lý Bát Nhã và Luận Lý Phật giáo của truyền thống Sanskrit, cũng như việc thực hành Kim Cang Thừa tantra. "

2012_09_25_Vietnam_N01Trước khi thực hiện một lễ quy y đơn giản (cho đoàn Phật Tử Việt Nam) mà Ngài đã đồng ý, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích,

"Cấu trúc cơ bản của Phật Pháp là bốn chân lý cao quý. Theo luật nhân quả, nghiệp tích cực đưa đến hạnh phúc và nghiệp tiêu cực phát sinh đau khổ. Thập Nhị Nhân Duyên minh họa điều này và các bạn có thể nhìn thấy chúng được miêu tả trong hình ảnh của bánh xe luân hồi tại lối vào ngôi chùa. Vô Minh đưa đến nghiệp, để lại một dấu ấn vào tâm trí hay trong tầng sâu thẳm của ý thức (consciousness). Các mối dây tiếp theo đến mối dây cuối cùng là lão hóa và tử vong. Nếu chúng ta không muốn đau khổ, chúng ta phải phá vỡ chuỗi nghiệp lực, mà chúng ta làm bằng cách loại trừ vô minh. Chúng ta cần phải hiểu là bằng cách loại trừ vô minh trong tâm trí của chúng ta, chúng ta sẽ vượt thoát khổ đau. Khi chúng ta đã loại bỏ được vô minh là chúng ta thật sự chấm dứt khổ đau.

"Chúng ta quy y Phật, Pháp và Tăng bởi vì chúng giúp chúng ta thanh lọc những ô nhiễm của tâm chúng ta. Quy y Tam Bảo là lối vào Phật giáo. Khi chúng ta thực hiện điều này, cùng với tâm thức tỉnh của bồ đề tâm, chúng ta không chỉ tìm kiếm sự giải thoát của chính chúng ta, mà còn giải thoát cho chúng sinh khác. Và để có sự giúp đỡ lớn nhất đối với họ, chúng ta cần một tâm toàn giác. "

Sau đó, Ngài chủ lễ một buổi lễ Quy Y đơn giản (nương tựa vào Phật Pháp và Tăng) và khao khát để đạt được giác ngộ. Cuối cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Ngài thực hành cầu nguyện mỗi ngày và tìm thấy những điều rất hữu ích, tâm sự rằng Ngài chỉ bắt đầu thích thú thực hành ở tuổi 14, 15. Ngài khuyên rằng trong khi có những khía cạnh vật lý của thực tế và có những điều chúng ta nói, điều quan trọng nhất là thực hành ở mức độ tâm.

"Hãy đọc hai câu thơ này hàng ngày – quy y (nương tựa) và bồ đề tâm - và suy nghĩ về ý nghĩa của chúng. Nếu bạn có thể, giúp đỡ những người khác, và nếu bạn có thể ít nhất là không làm hại họ. Và khi bạn cảm thấy bạn đang giận dữ, cắn khớp ngón tay của bạn! "

Kết thúc buổi nói chuyện, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Ngài cho rằng trong cuộc đời này, Ngài có ba cam kết: đầu tiên là thúc đẩy các giá trị con người bằng cách nói chuyện về đạo đức thế gian, thứ hai là thúc đẩy sự hiểu biết và hòa hợp giữa các tôn giáo, và thứ ba, kể từ khi Ngài đã chuyển giao trách nhiệm chính trị của mình cho nhân dân Tây Tạng để họ bầu người lãnh đạo, là để khuyến khích các môn đệ của Đức Phật để trở thành Phật tử thế kỷ 21. Ngài nói rằng Ngài hy vọng bạn bè của mình cũng sẽ cảm thấy tự nhiên có khuynh hướng làm theo ba điều cam kết của Ngài.

Tịnh Thủy biên dịch

(theo dalailama.com)

Chú Thích của người biên dịch:

[1] Trong tiếng Anh có thành ngữ “take someone (or something) for granted” rất hay, mà tiếng Việt không có câu nào dịch ra chính xác. “take it for granted” tạm cưỡng dịch là “coi như đó là điều đương nhiên”, chỉ một thái độ không biết quý trọng, không biết ơn.

[2] Việc nghiên cứu về lịch sử tiết lộ rằng thực hành Shugden là thực hành có tính chất bộ phái mạnh mẽ, đã có một quá trình lịch sử trong việc góp phần vào xu thế bất hòa, chia rẽ trong nhiều bộ phận của Tây Tạng, và giữa những cộng đồng Tây Tạng với nhau. Vì thế, từ năm 1975 cho tới nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thường xuyên công khai bày tỏ quan điểm của ngài là mọi người không nên theo đuổi thực hành này..( /D_1-2_2-81_4-6752_5-50_6-4_17-340_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark)

[3] Hiện nay, Phật giáo Tây Tạng có bốn tông phái chính là Gelug (Cách-lỗ), Sakya (Tát-ca, Thích-ca, Tát-già), Kagyu (Ca-nhĩ-cư) và Nyingma (Ninh-mã) đang hoạt động mạnh tại Tây Tạng và các nước khác trên thế giới: (1)Trường phái Ninh mãcòn gọi là phái Mũ Đỏ là do đại sư Tịch Hộ thành lập. Đây là một trường phái Phật giáo lâu đời nhất của Tây Tạng và đã tiếp nhận năm điều của tín ngưỡng Bôn và cảm hóa đạo Bôn thành Phật giáo. Chủ trương của phái Mũ Đỏ là Mật tông pha lẫn Thiền tông của Trung Quốc. (2) Trường phái Ca nhĩ cưcòn gọi là phái Mũ Trắng do ngài Marpa (1012-1099) và đệ tử của ngài là Gampopa còn gọi là Dagpo Lhaje (1084-1161) thành lập. Tông phái này chú trọng về thiền định gọi là “Đại Pháp Ấn” (Mahamudra) và “khẩu truyền” từ thầy đến trò. Gyalwa Karmapa, Ogyen Trinley Dorje (sanh năm 1985) là vị Lạt Ma thứ 17 của tông phái này, (3) Trường phái Tát ca, còn gọi là phái Mũ Xám. Ngawang Kunga Theckchen Rimpoche (sanh năm 1945) hiện là Lạt ma cao nhất của phái này. (4) Trường phái Cách lỗ(Gelugpa): là trường phái Mũ Vàng do nhà cải cách Phật giáo, ngài Rinpoche Je Tsongkhapa (1357-1419) thành lập. Gelug cũng có nghĩa là giới luật nên tông phái này nhấn mạnh về quy củ giới điều. Phái Mũ Vàng đã có nhiều cống hiến lớn cho Phật giáo đặc biệt phái đã thành lập được truyền thống tái sanh nổi tiếng của các Đức Đạt Lai Lạt Ma.

[4] Đức Đạt Lai Lạt Ma thường dùng cụm từ Truyền Thống Pali và Truyền Thống Sanskrit. Truyền thống Pali thường được mọi người biết đến là Phật Giáo Nguyên Thủy vì dùng các văn bản bằng tiếng Pali. Truyền thống Sanskrit thường được biết đến là Phật Giáo Đại Thừa vì các văn bản sử dụng tiếng Sanskrit (Phạn ngữ). Đối với Kim Cang Thừa (Tantra), các văn bản lúc đầu dùng tiếng Sanskrit, nhưng ngày nay là tiếng Tây Tạng. Hiện nay nhiều Phật tử cố gắng không dùng cụm từ Phật Giáo Đại Thừa và Phật Giáo Tiểu Thừa mà gọi là Phật Giáo Theravada thay cho Phật Giáo Nguyên Thủy / Tiểu Thừa và Phật Giáo Bắc Truyền thay cho Phật Giáo Đại Thừa.

[5] Từ “vô minh”nói chung thì tiếng Sanskrit gọi là Avidya, tiếng Anh dịch là “ignorance” nghĩa của chữ này là “thiếu hiểu biết”. “Thiếu hiểu biết" ở đây không có nghĩa là thiếu sự hiểu biết mang lại từ sự học hỏi từ chương trong sách vở, hay sự thiếu hiểu biết mang tính cách thông thái của một nhà bác học mà là sự hiểu biết dựa vào những cảm nhận của giác quan, vào các quy ước và công thức. Nói một cách đơn giản thì ta có thể hiểu vô minh như là một cách "nhìn sai", “nhìn lầm lẫn”, hay "hiểu sai".

[6] Tánh Không tiếng Sanskrit gọi là Sunyata, chỉ định đặc tính hay bản chất trống không của mọi hiện tượng. Sunyata diễn đạt bằng tiếng Anh là Emptiness . Tánh Không không phải là không có cái gì cả, mà tánh Không là vì duyên sanh khởi. Tổ Long Thọ đã nói: Duyên Khởi chính là Tánh Không, bởi vì Tánh Không chẳng phải là nói sự vật không có hiện hữu, mà nói rằng chính vì sự vật hiện hữu tùy thuộc vào những nhân duyên điều kiện, nghĩa là tùy thuộc vào các thứ ngoài nó mà sinh ra, cho nên không thể hiện hữu độc lập, không tồn tại thực sự và không có tự tánh. Hiểu Tánh Không tức là hiểu Duyên Khởi, là tùy duyên mà sinh ra.

Xem bài trước Ngày Thứ Nhất: ● ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM -Ngày Thứ Nhất

 


(CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GIẢ)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2015(Xem: 8482)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9443)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 9026)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
13/09/2015(Xem: 7921)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 7456)
Những ngôi Chùa nổi tiếng ở VN
12/09/2015(Xem: 17039)
Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy“ thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa“. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có
12/09/2015(Xem: 9429)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10652)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9533)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
03/09/2015(Xem: 24080)
Nói đến giáo lý Phật giáo là nói đến chữ Tâm. Ngay sau khi thành đạo, đầu tiên đức Phật thuyết về tâm (kinh Hoa Nghiêm), rồi đến khi sắp nhập Niết-bàn, Phật cũng đã dặn dò hàng đệ tử phải chế ngự tâm (kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Di Giáo). Phật pháp lấy tâm làm gốc. Có thể nói mà không sợ lầm lẫn, tất cả những điều đức Thế Tôn đã dạy, được hai phái Tiểu thừa, Đại thừa kết tập lại trong Tam tạng, đều nói đến chữ “tâm”. Đệ tử của Phật, thực hành theo những gì đức Phật đã giáo hóa, cho dù tu học theo tông phái, pháp môn nào, cũng không ngoài bốn chữ: “tu tâm dưỡng tánh”. Vậy tìm hiểu chữ tâm cho thấu đáo, khảo sát, thẩm cứu, thường xuyên quán chiếu về tâm, trộm nghĩ đó cũng là điều lý thú và hết sức cần thiết đối với hành giả, đấy chứ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]