Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hướng đi của Đại Hội Hoằng Pháp

23/09/201208:51(Xem: 6923)
Hướng đi của Đại Hội Hoằng Pháp

 

Phat Thich Ca-2a 

 

HƯỚNG ĐI CỦA ĐẠI HỘI HOẰNG PHÁP

Tổ chức tại Như Lai Thiền Tự, San Diego, ngày 16, 17 và 18-9-2005

Phát biểu của Hòa thượng Thích Giác Lượng

 

     Thế kỷ 21 đang chứng kiến nhiều đổi thay lớn lao trong những phát kiến khoa học. Xã hội phương tây ngày càng hướng về đời sống vật chất, hưởng thụ nhiều hơn. Đời sống tâm linh, đời sống Tôn giáo ngày càng như xa lạ đối với giới trẻ, thành tố cho một phạm trù cộng đồng nhân loại mới. Khi một xã hội, mà con người chỉ lo tìm cách  giành dựt lợi nhuận, dối trá trong cư xử và tàn bạo trong cuộc cờ “mạnh được yếu thua”, sự phát huy ảnh hưởng Tôn giáo nói chung và của Phật giáo nói riêng, là việc làm vô cùng cần thiết vào lúc nầy, để cứu vãn nguy cơ tha hóa con người, nguy cơ biến dạng của các định chuẩn luân lý đạo đức cao đẹp trong thời đại chúng ta.

      Trong thư ngõ của Ban Tổ chức Đại hội Hoằng Pháp HT. Thích Minh Tuyên đã  đề cập: “Các trào lưu hiện đại hóa, khoa học hóa, điện toán hóa và toàn cầu hóa, đã và đang lan tràn chi phối một cách toàn triệt mọi hành hoạt của con người trên khắp các lãnh vực văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo. Chúng không chỉ làm lung lay tất cả nền tảng của các lâu đài tư tưởng, triết học, thần học, mà còn phá vỡ tất cả những biên giới hẹp hòi, những cơ cấu lạc hậu, những hệ thống độc tôn, những chủ nghĩa giáo điều, đã ngự trị lịch sử văn minh nhân loại suốt từ bao thế kỷ.

      Con người và thế giới đang biến đổi theo gia tốc chưa từng có trong lịch sử, mà thực trạng đang hiện bày, là càng lúc càng tạo nên những khủng hoảng cũng chưa từng có. Từ những khủng hoảng nơi thế giới ngoại tại như các việc gia tăng dân số, thiếu thốn lương thực, ô nhiễm môi trường, tàn phá tài nguyên… đến các việc suy thoái đạo đức, đổ vỡ gia đình, gia tăng tội ác xã hội mà cực điểm là chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa chống khủng bố bằng bạo lực hiện hữu…

      Viễn ảnh của con người và thế giới thật là tối tăm mù mịt… Trước thực trạng hiện tại và viễn ảnh tương lai của con người và thế giới, Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt nam nói riêng phải làm gì và làm như thế nào để có thể kế thừa một cách xứng đáng công cuộc cứu thế của đấng Phật Tổ?” Đặt vấn đề vai trò của Phật giáo phải làm gì vào lúc này, và Phật giáo Việt nam hải ngoại nói riêng, phải có hướng đi như thế nào, để tạo dựng một nếp sống tâm linh phong phú cho con em chúng ta. Phải chăng, đây là trách nhiệm của chư Tôn đức và toàn thể Phật tử hiện đang sống trên các vùng đất tỵ nạn. Chính vì thế mà Đại Hội Hoằng Pháp hôm nay được triệu tập với chủ đề: “Phật Giáo Với Thế Giới Phương Tây Trong Thời Đại Mới”

     Trong khi nhiều tôn giáo lớn đã hiện diện ở phương tây trong nhiều thập kỷ, mà Phật giáo chỉ được các thức giả Âu châu đề cập đến vào những năm đầu của thế kỷ 19, và phong trào Phật giáo sớm hình thành mạnh mẽ trong các xã hội này chỉ vào đầu thế kỷ 20. Riêng Phật giáo Việt nam thì thực sự hiện diện tại Hoa kỳ vào năm 1966 khi Thượng Tọa Thích Thiên Ân  được mời dạy tại Đại học UCLA. Từ đó phong trào lớn mạnh dần và đặc biệt khi làn sóng tỵ nạn ồ ạt đổ vào đất Mỹ kể từ tháng Tư đen 1975 thì cộng đồng Việt nam đã thực sự hình thành một Giáo Hội đầu tiên “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ”(1976) và cho đến năm 1992 một tổ chức thống nhất Phật giáo được mang tên: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ Văn phòng II Viện Hoá Đạo” đã lớn mạnh và đóng vai trò chủ yếu của Phật giáo Việt nam tại Hoa kỳ.

      “Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới” cũng đã hình thành từ năm 1979 mà Hoà thượng Thích Giác Nhiên, vị cao cấp Nhất làm Pháp chủ, chúng tôi được tôn cử làm Viện Trưởng Viện Hành Đao, Thượng toạ Thích Minh Tuyên làm Tổng Thư Ký, Thượng toạ Thích Giác Chân Thủ quỹ của Gíáo Hội lúc bấy giờ. Trải dài thời gian hành đạo dưới sự lãnh đạo của Hoà thượng Pháp chủ, Giáo Hội đã dựng lập được nhiều Tịnh xá khắp các Tiểu bang ở Hoa Kỳ, tính đến nay đã có trên 30 ngôi Tịnh xá.

     Với niềm ưu tư thao thức qua tinh thần dấn thân phụng sự, Hoà thượng Thích Minh Tuyên và Hòa thượng Thích Minh Hồi đã vận dụng tâm lực tối đa, nhân Đại lễ Khánh Thành Tân Đạo Tràng Như Lai Thiền Tự, tổ chức “Đại Hội Hoằng Pháp”, không ngoài mục đích củng cố và phát huy Phật Đạo. Một Đại hội có tầm vóc khả dĩ mà Giáo Hội chúng tôi đang cố gắng thực hiện, vì nó mang tầm mức hết sức quan trọng, chất chứa nhiều hoài bão lớn lao cho Đạo Pháp.

      Đại Hội Hoằng Pháp hôm nay là cơ hội để chư Tôn đức và các vị thức giả cùng Phật tử khắp nơi vân tập về, hạnh ngộ trong tinh thần Từ Bi của Đức Phật.

    Đại Hội Hoằng Pháp hôm nay cũng là cơ hội tạo mối tương quan, tương ngộ trong ánh sáng hào quang của Đức Phật để mỗi người trong chúng ta hãy tự thắp lên ngọn đuốc thiêng , xua đi bóng tối mê lầm, giải thoát cho chính mình và giải thoát cho tha nhân. Vì vậy mà Đại Hội Hoằng Pháp nầy mong được sự đóng góp sáng kiến của chư Tôn đức Tăng Ni cùng các vị thức giả trong hàng ngũ Phật tử cho việc định hướng con đường đi hiện nay cho Phật giáo Việt nam tại Hoa kỳ. Phương thức để thực hiện những mục tiêu mà Giáo Hội mong muốn được khả thi trong sứ mạng “Hoằng Pháp Vi Sự Nghiệp”.

      Ước mong Đại hội sẽ thảo luận trong tinh thần hoà ái, xây dựng và dấn thân, để Đại hội sẽ nhanh chóng đạt  thành quả viên mãn.

      Tiếp đây, với tư cách Viện Trưởng Viện Hành Đạo Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới, tôi xin góp vài lời nhận định như sau:

      Như quý Tôn Đức và quý thức giả đã biết, nền tảng của Phật Giáo là phục vụ tha nhân như vị Tăng già Walpola Rahula đã tuyên bố trong cuốn sách của ông “The Heritage of Bikkhu “Di sản của vị Tỳ kheo”. Hòa Thượng Thích Quảng Độ ở Việt nam đã nhiều lần tuyên bố “Phật giáo không làm chính trị, đảng phái, không mưu đồ quyền lợi riêng tư, nhưng Phật tử không thể thờ ơ trước những bất công, đàn áp mà người dân phải chịu đựng. Giới Tăng sĩ và Cư sĩ Phật tử phải dấn thân đấu tranh cho một xã hội công bằng và thiện đức, trong đó quyền con người và các quyền dân sự khác phải được tôn trọng”

      Nền tảng của Phật giáo là phục vụ người khác (1) đúng  theo lý tưởng Bồ Tát Đạo. Tăng già phải làm tất cả các công việc nào làm lợi cho người khác (lợi tha) cho dù việc đó được gọi là thế sự hay không.  Rahula dẫn lời Phật dạy trong các kinh  Digha, Samyutta-nikaya, Dhammapada để chúng tỏ khía cạnh xã hội trong Giáo pháp của Đức Phật. Ngài đã đưa những nguyên tắc trị nước của các ông Vua Bồ Tát. Ngài đã dạy những cách sống cho các Cư sĩ để đạt tới hạnh phúc ở đời nầy. Ngài đã dạy nhiều điều liên quan tới sức khoẻ, công ăn việc làm (chính mệnh) nguyên tắc giữa các mối liên hệ như cha con, vợ chồng, thầy trò v.v…Viện dẫn lịch sử Tích Lan, Rahula chứng minh là trong quá khứ, các nhà Sư tham gia rất nhiều về việc công ích, kể cả chuyện làm cố vấn quân sự, triều chính, và cũng giống như trong lịch sử đời Lý “đảo chánh” các ông vua vô đạo.

     Không có ai ngồi ở cái gối tọa thiền, bịt tai nhắm mắt trước những bất công và đàn áp mà quần chúng phải chịu. Dĩ nhiên, mục đích tối hậu của Phật tử là giải thoát khỏi chấp thủ căn bản là chấp ngã, nhưng thay đổi xã hội là trọng tâm của Tôn giáo…

      Không một Phật tử nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ đối với nhu cầu của đại chúng…Phật không chịu thuyết pháp trước khi một thính chúng đang bị đói mong được ăn. Phật thành đạo sau khi bỏ con đường khổ hạnh để nhận sửa cúng dường. Không nghe được những hải triêu âm, thế gian âm, thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa.

      Hơn lúc nào hết, trong giai đoạn này, người Phật tử phải ý thức vai trò dấn thân tích cực của mình để đòi lại quyền sống cho dân tộc ở quê nhà nói chung và giải trừ Pháp nạn cho Phật giáo trong nước nói riêng.

1 ) Gìn giữ và phát huy nền văn hóa dân tộc:

      Tại hải ngoại việc làm trước nhất là gìn giữ và phát huy nền văn hóa dân tộc, trong đó nền văn hóa Phật giáo là nhân tố căn bản mang ảnh hưởng sâu đậm nhất. Đa phần người Việt khi đến tỵ nạn tại các quốc gia phương tây, nhất là tại Hoa kỳ thì tuổi đã cao, thế hệ kế tiếp chịu ảnh hưởng nhiều nền văn hóa vật chất phương tây và đặc biệt thế hệ con cháu sinh ra và lớn lên ở Hoa kỳ hay họ đến Hoa kỳ khi còn rất nhỏ, là thế hệ hoàn toàn bị bật gốc khỏi nền văn hóa truyền thống Việt. Và đây chính là trọng điểm giáo dục mà chúng ta phải đặt ra và phải lưu tâm giải quyết.

      Phải làm sao cho giới trẻ ở hải ngoại biết dung hòa đời sống vật chất và tinh thần, biết những nguyên tắc và tiêu chuẩn trong đời sống đạo đức của phương đông trước những cám dỗ của xã hội phương tây. Bài học của Đức Phật dạy cho người dân thường tên Dighajanu mà nhà nghiên cứu Phật học Trần Chung Ngọc đã nêu trong tuyển tập II “Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới” luôn luôn là mẫu mực để giáo dục cho thế hệ con em chúng ta ở nước ngoài.

      Đức Phật dạy: Có 4 điều kiện đưa hạnh phúc đến cho con người trên cõi đời. Thứ nhất: Chăm chỉ, cố gắng đạt tới “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” Thứ nhì: Phải bảo vệ tài sản kiếm được một cách chính đáng bằng mồ hôi nước mắt. Thứ ba: Kết bạn với các thiện trí thức, nghĩa là những người đạo đức, học rộng biết nhiều, phóng khoáng và thông minh, để giúp mình tiến bộ trên Chánh đạo, xa lánh ác nghiệp. Và thư tư: tiêu pha trong khả năng và dành một phần cho những việc thiện, không bần tiện mà cũng không hoang phí.

      Như vậy, chúng ta thấy rằng: Giáo ly của Đức Phật nhằm tạo sự ổn định gia đình và xã hội, mang lại hạnh phúc cho dân chúng.(2) Cho nên dù là ở trong nước hay hải ngoại, người Phật tử đều phải toàn tâm hướng về việc giáo dục và đào luyện thế hệ trẻ trong tinh thần Phật giáo nhập thế để tránh khỏi bị tha hóa, mất gốc rễ cội nguồn.

2) Một nền Giáo dục Phật giáo Việt nam ở hải ngoại:

      Để duy trì và phát triển truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa Việt, đặc biệt là tinh thần nhập thế của đạo Phật, chư Tôn đức và các vị thức giả Phật giáo Việt nam phải lưu tâm đến công cuộc giáo dục thế hệ trẻ. Con em của chúng ta ngày nay ở hải ngoại hầu như thích ứng dễ dàng với nền văn hoá nơi cư ngụ. Ở Hoa kỳ chẳng hạn, thế hệ trẻ đã hoà đồng với nếp nghĩ, nếp sống của người Mỹ, nói tiếng nói của họ một cách dễ dàng, nhưng lại khó khăn khi diễn tả tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) và lại càng xa cách với các bậc sinh thành trong các quan niệm đạo đức và tôn giáo, Hố cách biệt giữa phụ huynh và con trẻ ngày càng lớn, làm sao có thể san bằng hố sâu này, hay có thể tạo được sự gần gũi, sự gắn bó giữa hai thế hệ ? nói khác đi là làm sao để con em chúng ta không quên đi nguồn cội của nền văn hóa Việt.

      Giáo dục chính là yếu tố để giải quyết vấn nạn này. Giáo dục như thế nào, chính là cách mà chúng ta phải bàn bạc đến hôm nay trong Đại Hội Hoằng Pháp này.

      Thông thường trong một xã hội rộng lớn như ở Việt nam hay trong một cộng đồng bé nhỏ người Việt tỵ nạn ở các quốc gia tạm dung, nguyên tắc giáo dục của nền Phật học cũng phải đi từ cấp thấp đến cấp cao. Nếu quý chư Tôn đức vá các vị thức giả Phật giáo muốn đưa “Ánh Đạo Vàng” vào trong đời sống cộng đồng tỵ nạn, hay vào trong tầng lớp trẻ tuổi hiện nay thì phải tuần tự qua ba cấp độ:

      1) Giáo dục Phật học phổ quát.

      2) Giáo dục phổ thông Phật học.

      3) Và giáo dục cao cấp Đại học Phật giáo.

            a) Giáo dục Phật học phổ quát:

Nhằm cung ứng kiến thức sơ đẳng giản dị cho những ai, nhất là lớp trẻ thiếu niên mới đi vào tìm hiểu Phật học. Những bài học này phải được soạn rất đơn giản, dễ hỉểu, được trình bày theo trình độ tiếng Việt của con em chúng ta ở hải ngoại. Phải được nghiên cứu kỹ càng để khỏi tạo buồn nản, làm thối chí đối tượng này.

            b) Giáo dục phổ thông Phật học:

Nền giáo dục này chủ đích là trang bị cho người học Phật những kiến thức tổng quát phổ cập, nhưng không phải là đơn giản, hướng đến suy nghĩ, tìm tòi theo năm pháp cái trong võ trụ đó là Ngũ Uẩn hay Ngũ Ấm, mà mỗi vật chi trên thế gian nầy, dầu có hình tướng (vật chất) hay không hình tướng (tinh thần) đều thuộc về những chi tiết của Ngũ Uẩn nầy cả. Năm Pháp cái ấy là:  Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

1. Sắc Uẩn là hình sắc thể chất.

2. Thọ Uẩn là thọ cảm ưa chịu

3. Tưởng Uẩn là tư tưởng hay tưởng tượng

4. Hành Uẩn là hành vi tức việc làm

5. Thức Uẩn là thức trí phân biệt.

              (Đó là những lời dạy của Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn Lý.)

      Nhờ biết và thâm nhập Ngũ Uẩn tiến đến hiểu rõ Bát Chánh Đạo, làu thông Tứ khổ: Sanh, Lão, Bịnh, Tử, mới mong tiến và hướng đến đời sống thanh tịnh giải thoát cho tự thân rồi mới phục vụ cho tha nhân (tự độ và độ tha) tức là phụng sự cho cộng đồng xã hội chúng sinh.

            c) Giáo dục Phật Học ở cấp Đại Học:          

Đây là giai đoạn đào sâu vào Phật học, giúp đào tạo tăng tài cho công cuộc hoằng hóa Giáo Pháp của Đức Như Lai. Người học Phật ở giai đoạn nầy có kiến thức chuyên môn về ngành Phật học với trình độ Cử nhân sau bốn năm của nền giáo dục Phật học phổ thông. Như vậy, một sinh viên tốt nghiệp cử nhân Phật học sẽ được trang bị các kiến thức cần thiết về Kinh, Luật, Luận quan trọng của Đại thừa, Tiểu thừa, Thinh Văn, Duyên giác Thừa, Nhất thiết hữu bộ và các bộ môn ngoại điển như Triết học, Tâm lý học, Văn học, Sử học, Địa lý học v.v… (3)

Với ba cấp học trong hệ thống Giáo dục Phật giáo như đề nghị trên đây, trình độ cấp  (a) và (b) hiện có nhu cầu rất lớn trong cộng đồng Việt tỵ nạn chúng ta. Còn trình độ cấp Đại học, nơi  đào tạo Tăng tài và các học giả Phật học trong tương lai là điều mà Giáo hội đang nghĩ tới, nhưng thực hiện được hay không đều tùy thuộc vào khả năng, sự quyết tâm và phương tiện.

Về hai cấp trình độ Phổ quátPhổ thông, thì hiện thời đã có tổ chức Gia đình Phật Tử đang sinh hoat tại các chùa, có các Huynh trưởng đang đảm trách việc giảng huấn nầy vào cuối tuần hay các nhóm tu học bất thường tại mỗi Tự viện. Tuy nhiên thành quả đạt được cũng vẫn còn rất khiêm tốn, vì các gia đình Phật giáo chưa nhiệt tình thúc đẩy con em tham gia các cấp trong các sinh hoạt của GĐPT..

Cũng như trong các lớp tu học do các vị Tôn đức Tăng Ni giảng huấn. Chúng ta nhìn qua hệ thống phát triển Chùa Viện khắp nơi trên nước Mỹ ngày càng mở rộng, đó là điều đáng mừng cho Phật giáo Việt nam, nhưng cũng là điều đáng lo, vì không đủ Tăng tài, đủ trình độ giới đức, thực tu, thực học để cung ứng cho nhu cầu tu học của đại chúng Phật tử hiện nay. Trong sứ mệnh Hoằng Pháp của Phật giáo Việt nam chúng ta phải thật sự cập nhật, phù hợp với thời đại mới, nhất là tại Hoa kỳ. Những hoạt động Phật sự như thuyết pháp, trai đàn, mở những khoá tu học v.v…cũng đã đóng vai trò giáo dục hết sức trọng yếu, trong việc đem Phật giáo Việt nam vào cộng đồng và vào xã hội Mỹ. Điều quan trọng là các Tăng Ni hay các Huynh trưởng Phật tử sẽ lôi kéo, thuyết phục tín đồ nhiều hơn khi chính bản thân những vị nầy được trải qua những giai đoạn đào luyện cẩn trọng, có thực chất và có chiều sâu trong các học viện, tu viện Phật giáo ngang tầm Đại học và hậu Đại học. Phải chính quy hóa hàng ngũ Tăng Ni qua hệ cấp Đại học Phật giáo để tạo niềm tin cho đại chúng trong công cuộc Hoằng dương Chánh Pháp.

3) Công tác thực hiện cấp bách và lâu dài:

      Trong phạm vi nội bộ Giáo Hội Phật GiáoTăng Già Khất Sĩ Thế Giới. Viện Hành Đạo cố gắng hoạch định chương trình hành đạo, hoằng pháp và tu học như sau:

a)      Mở các khóa tu học hằng tháng, hoặc tam cá nguyệt tại mỗi cơ sở đạo tràng tịnh xá cho nhiều giới cư sĩ. Hằng năm mở khoá tu học trong mùa An cư kiết hạ cho hàng Tăng Ni, nhằm củng cố niềm tin và kiến thức Phật học. Tất cả nhằm nâng cấp trình độ Phật học trong Tứ chúng Phật tử.

b)      Kiện toàn tổ chức Gia Đình Phật Tử tại các Tự viện, Tịnh xá, hầu tạo môi trường thanh khiết, an lạc, hoà ái để các con em chúng ta trong việc mở rộng vòng tay thân ái, là cơ hội giao tiếp và tập ứng xử theo tập tục của nền Văn hóa Việt, ngõ hầu các em không quên nguồn cội quê hương.

c)      Nối kết chặc chẽ hàng ngũ Tăng Ni và đại khối Phật tử bằng cách ấn loát một bản tin hằng tháng (khoảng 8 đến 12 trang) để thúc đẩy và nhắc nhở nhau về các công tác Phật sự, trao đổi tin tức sinh hoạt, chia xẻ vui buồn giữa các Phật tử về Quan, Hôn, Tang tế. Về lâu về dài trong tương lai có thể thực hiện Đặc san nghiên cứu Phật giáo, dưới sự chỉ đạo của Giáo hội qua từng chủ đề cho mỗi số xuất bản, một, ba hoặc sáu tháng, tuỳ nổ lực, phương tiện của ban chủ biên. Đây là diễn đàn để làm nơi gặp gỡ, trao đổi, thảo luận của chư Tôn đức Tăng Ni và các vị thức giả mà các Phật tử hằng quan tâm về sứ mạng Hoằng pháp của Giáo Hội.

d)     Thành lập một Ủy Ban nghiên cứu đặc biệt cho việc hoằng truyền Phật Pháp trên mọi phương diện, hầu đáp ứng nhu cầu  thực tiễn trong thời đại mới, Ban nầy gồm các vị thức giả bên cạnh Viện Hành Đạo, để thường xuyên giúp ý kiến cho Giáo hội trong các vấn đề có tầm mức rộng lớn ở cấp độ quốc gia và thế giới.

e)      Quan tâm đến việc thành lập một Đại học Phật giáo chung cho Phật giáo Việt nam ở hải ngoại về lâu về dài. Trước mắt, dồn nổ lực hổ trợ cho Phật giáo Liên Hiệp Hội để thực hiện đồ án Viện Đại học Westland, mà GS. Lê Phước Sang là Viện Trưởng và Ht. Thích Minh Tuyên là Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị.

    Cuối bài phát biểu nầy, chúng tôi xin biểu tỏ niềm vui suớng và hân hoan được đón  mừng liệt quí vị, nhất là chư Tôn đức Tăng Ni từ nhiều nơi đã quang lâm chứng minh và tham dự Đại Hội. Thứ nữa,  quí bậc thức giả khắp nơi đã hết lòng vì đại cuộc Hoằng truyền Chánh Pháp, phổ độ quần sanh, mà các Ngài đã lặn lội về đây, chung sức chung lòng đóng góp tài năng tư tưởng cho Đại Hội. Thật không gì quý bằng:

Hạnh phúc thay Tứ chúng đồng tu.

Hạnh phúc thay Tăng Già hòa hợp.

-----o0o-----

    Nhân danh Viện Trưởng Viện Hành Đạo Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới, xin chân thành cám ơn các Ngài đã  niệm tình hoan hỷ tạo cơ hội cho Đại Hội viên mãn.

      Kính thưa chư tôn Đức và quý thức giả Phật tử,

      Trên đây là một vài điều nhận định và gợi ý tổng quát, liên quan đến công cuộc Hoằng pháp của Giáo Hội Phật GiáoTăng Già Khất Sĩ Thế Giới. Ngưỡng mong quý Ngài Tôn Túc, quý Thức giả  soi sáng, góp ý, để Đại Hội gặt được nhiều thành quả tốt đẹp.

  

Nam Mô A Di Đà Phật

Sa Môn Thích Giác Lượng

 

 

 

 

 

Chú thích:

1)      Dẫn theo tài liệu của Quán Như trong bài “ Sứ Điệp Xã Hội Của Phật Giáo” đăng trong tuyển tập “ Phật Giáo Trong Thế Kỷ mới”( tập 2)  do Giao Điểm xuất bản tại Hoa kỳ 1997 tr.204,205.

2)      Theo GS Trần Chung Ngọc “Phật tử đóng góp dược gì trong công cuộc giữ gìn và phát huy nền văn hoá dân tộc, trong (PGTTKM”) Sđd.tr.221.

3)      Dựa theo nhận xét của thầy Thích Tâm Tịnh , trong PGTTKM. Sđd.tr.231.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4537)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7356)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4769)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5316)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10295)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9042)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6112)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8807)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4988)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]