Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát nguyện thọ Bồ tát-Thập thiện giới nguyện lực sẽ được vô cùng

23/10/201009:35(Xem: 10630)
Phát nguyện thọ Bồ tát-Thập thiện giới nguyện lực sẽ được vô cùng
Duc_Phat_Thich_Ca (9)
Phát nguyện thọ Bồ tát-Thập thiện giới
nguyện lực sẽ được vô cùng*
HT. Thích Khế Chơn

Trong kinh Pháp Hoa có dạy: "Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mới xuất hiện ra đời, để mở bày, chỉ dạy chúng sanh giác ngộ và thể nhập vào tri kiến Phật". Giáo pháp của Phật như biển rộng rừng sâu, tuy nhiên cũng có thể tóm thâu trong bốn câu kệ:

“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”.

Không làm các việc ác, gắng làm mọi việc lành, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời dạy của chư Phật.

Đức Phật là Bậc Vô Thượng y Vương, thấy rõ căn bệnh chúng sanh. Ngài dạy sở dĩ chúng sanh cứ mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi, tạo vô số nghiệp ác là vì niệm bất giác, mê lầm, không biết tiêu trừ ba món độc hại, không biết dùng diệu dược của Phật để tìm về với bản tánh thanh tịnh. Do đó hễ ai đã phát nguyện làm đệ tử phật, xuất gia hay tại gia đều phải biết kiên trì giới luật của Phật dạy để bảo tồn huệ mạng, mà phát đại Bồ Đề Tâm.

Muốn phát Bồ đề tâm tất nhiên phải biết chuyển THAM làm GIỚI, chuyển SÂN làm ĐỊNH, chuyển SI làm HUỆ, chuyển PHIỀN NÃO thành BỒ ĐỀ, chuyển SANH TỬ thành NIẾT BÀN, chuyển UẾ ĐỘ thành TỊNH ĐỘ.Người Phật tử mỗi khi cúng Phật đều niệm câu giới hương trước hết, chonên nói tu mà không giữ giới là tu sai đường lạc lối chứ không phải tu theo con đường của Phật.

Tiếng Phạn, giới được gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa, dịch là Bảo giải thoát, có nghĩa là giới thường bảo hộ người tu hành, giải thoát sanh tử, đạt đến Vô Thượng Bồ Đề. Bởi thế, giới là vị đạo sư của quả vị Tối Thượng Bồ Đề. Quá khứ chư Phật nhờ giới mà thành đạo, hiện tại chư Phật lấy giới để độ sanh, người tu hành sẽ nhờ giới mà được giải thoát. Giới là nền tảng của Thiền định và Trí tuệ. Muôn đức trang nghiêm, giới là căn bản. Vì thế, Kinh có dạy rằng: “Giới như đất bằng,muôn giống lành từ mặt đất mà sanh, giới như vị lương y hay trị ba độctham, sân si, giới như thuyền bè đưa người qua biển khổ, giới như chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân”.

Giờ đây, các vị phát tâm xả thân cầu Giới, vì các vị biết rằng chính giới pháp mới là pháp môn viên mãn để giải thoát chúng ta ra khỏi mọi phiền trược của kiếp luân hồi, vô minh điên đảo. Vì nghĩ đến sự cao quý của giới pháp như thế, nên đã có những giờ phútchúng ta đem hết thành tâm thiện chí để lãnh thọ. Chính những giới pháp đức Phật đã thành tựu viên mãn và sau bao nhiêu công phu tu hành, đạt thành chánh quả, Ngài đem giáo pháp đó dạy lại cho chúng ta xem nhưlà pháp Thiền huệ mạng của cả chính Ngài.

Bởi thế, sau khi Ngài viên tịch, giới pháp ấy vẫn tồn tại để dắt dẫn hàng đệ tử dõng mãnh tu học. Trước khi đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài đã dạy rằng: "Sau khi ta diệt độ, các con hãy tôn trọng trân quý giới luật như đi trong đêm tối được gặp đèn, như người nghèo khó gặp được châu báu. Giới luật chính là vị "Thầy" cao cả của các con, dù Ta còn thường trú tại cõi đời cũng không khác gì".

Giả sử chúng ta được duyên may sanh ra đời gặp đức Phật còn trú thế, thì chắc chúng ta cũng được nghe những lời dạy ấy, tuân giữ giới pháp của Ngài và tôn Ngài làm đấng Đạo Sư.

Nhưng vì bạc đức vô duyên, chúng ta phải sanh vào đời mạt pháp. Mặc dầu không gặp Phật chúng ta vẫn còn được phước duyên là có những giây phút được nghe giáo pháp của Ngài đã dạy, biết những giới luật Ngài đã truyền để chúng ta tôn thờ giới pháp làm đấng Đạo Sư như đức Phật ở đời không khác.

Một người đi trong đêm tối muốn thoát khỏi hố thẳm vực sâu cần được ngọn đèn bao nhiêu, thì khi gặp được ngọn đèn, họ sẽ quý báu bấy nhiêu, như kẻ nghèo khổ đói rách cần tiền của bao nhiêu, thì khi gặp châu báu, tiền bạc họ sẽ giữ gìn cẩn trọng bấy nhiêu. Chúngta những người tối tăm vì vô minh, đói khổ vì thiếu thốn sự giác ngộ, sự giải thoát. Cho nên chúng ta cũng sẽ quý giới pháp của Phật, không khác gì những người đi trong đêm tối gặp được ánh đèn, chắc chắn sẽ không để mất, kẻ nghèo gặp được châu báu sẽ bảo tồn quý trọng nó, thì người Phật tử cũng vậy, khi đã biết giới luật là phương pháp cao quý để chúng ta nương theo, thì chắc chắn sẽ đem hết thành tâm thiện chí cầu lãnh thọ, hộ trì cho bằng được.

Huống chi đã là con người, không ai là không có tội,không ai tránh khỏi lỗi lầm, sai trái phiền não xấu xa. Nhưng tội lỗi, phiền não nếu không nhờ những Pháp môn, những giới luật ngăn ngừa thì chắc chắn đời này qua kiếp nọ chúng ta vẫn là những con người quê hèn, nghèo nàn, không bao giờ bước lên được con đường Giải Thoát Giác Ngộ.

Các vị đang phát tâm thọ Thập Thiện Giới đã hiểu rõ nguyên nhân tạo nên nghiệp ác, tất cả đều do ba nghiệp thân, khẩu, ý cấu kết với ba độc tố tham, sân, si mà tạo ra nhiều tội lỗi. Thân thì tạo nên việc sát sanh, trộm cướp, tà hạnh; miệng thì nói lời dối trá, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói lời thô ác, ý thì khởi lên lòng tham lam bỏn xẻn, sân hận thù oán và tà kiến cố chấp từ đó mà tạo ra vô lượng vô biên tội lỗi đã tạo khổ cho mình còn đi gây khổ cho người. Cácvị hiểu được những lợi ích lớn lao khi tu tập được 10 điều lành. Không sát sanh trái lại luôn luôn phóng sanh, không trộm cướp trái lại luôn luôn bố thí. Không tà dâm trái lại luôn luôn đem tịnh hạnh đến chongười khác. Không nói dối trái lại luôn luôn nói đúng sự thật. Không nói hai lưỡi trái lại luôn luôn nói những lời đưa đến sự hòa hợp, đoànkết, không nói thêu dệt trái lại luôn luôn nói lời đúng đắn, lợi ích. Không nói lời thô ác trái lại luôn luôn nói lời thật lòng, từ ái. Khôngtham lam bỏn xẻn trái lại luôn luôn hướng tâm đến sự thí xả. Không thù oán sân hận trái lại luôn luôn hướng tâm đến Chánh Kiến và Trí Tuệ.Các vị muốn gieo trồng gốc rễ thiện nghiệp dẫn đến phước lạc nhơn thiên và đạo quả Niết bàn để làm lợi lạc chúng sanh nên đã phát tâm thọ trì và tu hành Mười Thiện Nghiệp Đạo. Mười Thiện Nghiệp Đạo ấy là căn bản của Bồ Đề Tâm Giới, là bước đầu tiên đi lên Bồ Tát Đạo. Trong Giới Pháp nầy, thấy điều ác mà không tránh cố nhiên là có tội, nhưng thấy việc thiện mà không làm thì chính cũng bị trái phạm.

Các vị đã thọ Thập Thiện rồi, nay đang phát tâm thọ Tại Gia Bồ Tát Giới. Bồ Tát Giới nói cho đủ là Đại Thừa Tâm Địa Giới. Danh từ Bồ Tát nói cho đủ là Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề là Giác Ngộ, Tát Đỏa là hữu tình. Một chúng sanh, một hữu tình đã Giác Ngộ đồng thời phát nguyện Giác Ngộ cho kẻ khác gọi là Bồ Tát. Danh từ Bồ Tát chẳng những hôm nay các vị được lãnh mà trước đây các vị thọ giới Bồ tát cũng đã được lãnh và mười phương Bồ Tát mà chúng ta đang kính lễ cũng đã được lãnh. Cùng một danh từ Bồ Tát nhưng phân biệt ra có: Sơ Phát Tâm Bồ tát, Gia Hạnh Bồ tát, Địa Thượng Bồ Tát, Địa Hậu Bồ Tát khác nhau. Như hôm nay các vị phát tâm thọ giới Bồ Tát, là chỉ mới phát tâm thôi, chưa làm gì để thể hiện rõ ràng với sự phát tâm ấy, chưa hoàn thành những Giới Hạnh đúng với một vị Bồ Tát thì được gọi là sơ phát tâm Bồ Tát. Từ đó tu tập trải qua các giai đoạn Tín, Trụ, Hạnh, Hướng, luyện theo những pháp môn Đại Thừa mà Đức Phật đã dạy thì gọi là Gia Hạnh Bồ Tát. Nhờ sự Gia Hạnh đó mà vô minh sẽ diệt bớt, Chơn Như sẽ được chứng thành, dần dần nhập vào Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa cho đến Thập Địa. Những Bồ Tát ở các địa vị này gọi là Địa Thượng Bồ Tát. Những vị ấy sau khi đã thành tựu Đẳng Giác, Diệu Giác vẫn tùy duyên hóa độ chúng sanh dưới nhiều hình thức, dưới nhiều căn cơ, dưới nhiều phương tiện. Tính cách tùy duyên hóa độ không trú Niết Bàn của các đức Phật gọi là Địa Hậu Bồ Tát. Vậy cùng một danh từ Bồ Tát nhưng có cấp bậc khác nhau. Hiểu rõ như thế chúng ta mới có một ấn tượng rõ ràng để pháttâm một cách chắc chắn, tu hành một cách sáng suốt. Địa vị đã khác nhau nhưng tại sao chúng ta cũng được gọi là Bồ Tát cả, bởi vì tuy cấp bậc khác nhau nhưng có một điểm đồng nhất là Bồ-đề tâm. Bắt đầu phát Bồ-đề tâm là phát tâm thượng cầu hạ hóa, tâm đó phát ra giờ nào thì chính giờ phút đó được gọi là Bồ Tát. Tâm ấy bền chắc mãi mãi, qua thờigian và không gian chẳng bao giờ lay chuyển cho đến khi trải qua các Địa Vị Gia Hạnh, Địa Thượng, Địa Hậu… vẫn một Tâm Bồ Đề ấy, không khác gì một sợi chỉ xuyên các hột chuỗi.

Đức Phật biết tất cả chúng sanh đều có Tâm Địa Giác tức là Giác Tánh sẵn có ở trong tất cả chúng sanh, cũng như ở các Đức Phật, các vị Bồ Tát. Nhưng ở chúng ta thì chưa có Tâm Địa Giới, bởi vì Tâm Địa Giới ở trong chúng ta không được xiển dương. Tâm Địa Giác nơi chúng ta luôn bị vùi lấp bởi những hành vi sai trái những nghiệp chướng nặng nề, những tâm niệm ích kỷ nên không thành Đại Thừa Tâm Địa Giới. Do đó Đức Phật căn cứ vào Tâm Địa Giác đó mà chế ra những điều mục tu hành để thành tựu Tâm Địa Giới. Tâm Địa Giới ấy gọi là Đại ThừaBồ Tát Tâm Địa Giới mà hôm nay các vị sắp thọ.

Tâm địa chúng ta vốn có khả năng ngăn ngừa tất cả điều ác, Đức Phật từ đó chế ra NHIẾP LUẬT NGHI GIỚI. Tâm dịa chúng ta vốn đủ khả năng làm các điều lành, căn cứ vào đó Đức Phật chế ra NHIẾPTHIỆN PHÁP GIỚI. Tâm địa chúng ta vốn là giác tánh bình đẳng, từ bi hỷxả, lợi lạc hữu tình, Đức Phật thấy vậy mới chế ra NHIẾP CHÚNG SANH GIỚI hay NHIÊU ÍCH HỮU TÌNH GIỚI.

Giới Bồ Tát muốn thọ trì trước hết phải Phát Bồ Đề Tâm, vì đây là Giới mà Đức Phật đã căn cứ vào Tâm Địa Giới để chế ra. Có Bồ-đề tâm thì Giới mới được thành tựu, mất Bồ-đề tâm thì Giới khôngthể hành trì. Bồ Đề Tâm là tâm viên mãn, tâm giải thoát, tâm giác ngộ.

Nhờ phát Bồ-đề tâm mà chúng ta có thể thành tựu được trí giác sáng suốt, không bị vô minh mù quáng che lấp. Bởi thếphát Bồ-đề tâm cũng là tôi luyện trí Bát Nhã, để có thể nhìn thấy mọi khía cạnh của việc làm lợi lạc chúng sinh.

Giới Bồ Tát luôn luôn nhìn đến chúng sanh những khíacạnh đau khổ mà chúng sanh phải gánh chịu. Chính những đau khổ đó chính mình cũng đang mắc phải, những kẻ không có Bồ-đề tâm thì không bao giờ biết bằng vào sự khổ của mình mà thông cảm nổi đau khổ của người khác, bằng vào sự ưa muốn của mình mà cảm thông sự ưa muốn của kẻkhác; do đó cứ muốn ta sống mà không biết gì đến kẻ khác chết, cứ muốnta vui mà kể gì đến kẻ khác khổ. Vì thiếu tâm Bồ-đề nên không bao giờcó được sự thông cảm Đại đồng đó mà thuật ngữ Phật giáo gọi là Đồng Thể Đại Bi. Người thọ Giới Bồ Tát luôn luôn đem tâm Bồ-đề thông cảm vớimọi chúng sanh qua những khía cạnh an lạc, khổ đau để cứu giúp tất cả. Đó là điểm cốt yếu của tâm Bồ-đề, của Giới Bồ Tát.

Phát Bồ-đề tâm, hành Bồ tát giới là phát bốn hoằng thệ nguyện:

“Chúng sanh không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch
Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học
Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện đều viên thành”.

Bốn đại nguyện này là duyên theo Tứ Diệu Đế mà phátra, một người muốn giữ trọn Bồ Tát Giới phải phát Bồ Đề Tâm, lập bốn đại nguyện. Từ căn bản đó mới phát sanh, thành tựu các Giới Đức viên mãn. Hôm nay các vị đã có nhân duyên phát tâm lãnh thọ Thập thiện và tại gia Bồ Tát Giới, mong rằng các vị hãy cố gắng xa lìa ác pháp, quán nhiếp thiện duyên, tu tập tinh cần, báo Phật ân đức. Hư không còncó ngày mòn, thế giới cũng có lúc tan, mong rằng nguyện lực của quí vịsẽ được vô cùng. Ngưỡng nguyện Tam Bảo oai quang, Hộ pháp Thiện thần, thùy từ chiếu giám.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/11/2015(Xem: 9208)
Nicolas sinh năm 1989. Em còn trẻ, còn rất trẻ. Tương lai của em là phía trước. Những ngày này em thực hành thiền cùng chúng tôi tinh tấn lắm. Em rất hay chạy bộ vào rừng. Ngày nào em cũng chạy. Hôm qua em bảo tôi lập 1 nhóm các thiền sinh chạy gần quanh đây, chạy quãng một vài trăm km thôi để gắn kết hơn, để hiểu và thương nhau hơn, để cùng bên nhau. Tôi giật mình – thế là được thiền chạy đấy em nhỉ. Khi tôi hỏi trong những cuốn sách về thiền đã đọc, em thích cuốn nào nhất, em nói ngay đó là “Buddha teaching” của thầy Thích Nhất Hạnh. Em đọc lần đầu tiên năm 2006.
12/11/2015(Xem: 9332)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của nhà sư Ajahn Chah trước một cử tọa gồm các tỳ kheo Tây Phương, các sa di và cả người thế tục, và đặc biệt là dành cho cha mẹ của một tỳ kheo người Pháp sang thăm con xuất gia ở Thái Lan vừa được thụ phong tỳ kheo. Buổi giảng được tổ chức tại ngôi chùa Wat Pah Pong của nhà sư Ajahn Chah trên miền bắc Thái, vào ngày 10 tháng 10 năm 1977.
12/11/2015(Xem: 11432)
Đây là bài Pháp luận có Chủ đề: Tại Sao Giới Trẻ Ít Đến Với Đạo Phật? do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ và Canada tổ chức trong KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN V tại San Diego, CA từ ngày 6 đến ngày 10, tháng 8 năm 2015. Thuyết trình đoàn gồm có Thượng Tọa Thích Hạnh Bình, Thượng Tọa Thích Nhật Trí, Ni Sư Thích Thiền Tuệ, Cư Sĩ Quảng Thành Bùi Ngọc Đường, và cá nhân tác giả. Đây là phần thuyết trình của chúng con / chúng tôi. Nếu có chút vụng về gì trong khi truyết trình hay viết thành văn, kính mong quý Ngài và quý vị niệm tình mà tha thứ cho.
12/11/2015(Xem: 10645)
Chiều ngày 30 tháng 10 năm 2015 (18/09 năm Ất Mùi) tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế đã diễn ra buổi lễ hành chính dâng Y Kathina do Phái đoàn Đại diện Quốc Vương Thái Lan cúng dường. Phái đoàn Đại diện Vương Quốc Thái Lan có ông Prả-chuộp Chằy-yả-xán - Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Hội hữu nghị Thái - Việt, Đại diện Quốc Vương Phu-mí-phôn Á-đul-yá-đệt và Hoàng gia Thái Lan; cùng các thành viên, các Phật tử Thái Lan tháp tùng trong phái đoàn.
12/11/2015(Xem: 8256)
"...Các con hy sinh một chút xíu, dễ thương một chút, nhẫn nhịn một chút xíu thì ngay trong đời sống này các con đang tập luyện một đức tính của ngọc." Hôm nay Thầy sẽ nói chuyện với các con về đề tài "Đá biến thành ngọc". Sao gọi là đá biến thành ngọc? Thầy mới đọc một cuốn sách và chính cuốn sách đó gợi ý cho Thầy buổi nói chuyện với các con hôm nay. Trong đó, tác giả đưa ra một hình ảnh rất bình thường, cụ thể về một hòn đá sỏi, lăn lóc vô tri giống như là một hòn đá màu xanh mà mình đi đạp thường ngày và không ai để ý tới nó.
11/11/2015(Xem: 9722)
Đừng mất thì giờ phân định việc thị phi cho rành mạch đen trắng trong khi tất cả đều chỉ là tương đối trong tục đế mà thôi. Cái đúng với người này có thể sai với người khác, cái phải ở chỗ kia có thể trái ở nơi nọ, cái đang đúng lúc này không hẳn sẽ đúng về sau v.v...*
08/11/2015(Xem: 7193)
Một hôm, sau bữa ăn sáng, thầy Pháp Sứ hỏi tôi có bận gì chiều nay không. Tôi nói rằng không. Thế rồi thầy bảo “Quý thầy đợi chú lúc 15h ở bãi đỗ xe gần tăng xá”. Tôi gật đầu nhận lời.
07/11/2015(Xem: 9522)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của nhà sư Ajahn Sumedho vào mùa kiết hạ năm 1994 tại ngôi chùa Amaravati do chính ông thành lập ở Anh Quốc. Ajahn Sumedho là một người Mỹ (tên thật là Robert Jackman), sinh năm 1934, và là đệ tử của vị đại sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992). Ông hoằng pháp ở Anh từ năm 1977 và đã thành lập nhiều ngôi chùa tại Anh quốc.
07/11/2015(Xem: 8834)
Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”. Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường..
06/11/2015(Xem: 12759)
Từ ngã ba trước trụ sở thị xã Ninh Hòa, rẻ về tay trái đi theo quốc lộ 26 hướng về Ninh Phụng, đi khoảng 3km đến quán Bảy Búa, rẻ phải theo hương lộ Ninh Phụng - Ninh Thân đi khoảng 500m nửa là đến chùa cổ tich Linh Quang (thôn Xuân Hòa, xã Ninh Phụng, Ninh Hòa).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]