Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nếp Sống Phật Tử Ở Miến Điện

17/06/201003:29(Xem: 9090)
Nếp Sống Phật Tử Ở Miến Điện

NẾP SỐNG PHẬT TỬ Ở MIẾN ĐIỆN
HT Thích Trí Chơn chuyển ngữ

Gần90 phần trăm dân tộc Miến đều theo Phật Giáo. Giữa khung cảnh xanh tươicủa đất Miến, người ta thấy vươn lên từ các đỉnh đồi dọc theo bờ sông hay trên thung lũng những ngôi chùa màu trắng. Ðời sống xã hội Miến hoàntoàn xây dựng trên nền tảng Phật Giáo. Tinh thần từ bi của đạo Phật đã thấm nhuần sâu xa khắp mọi tâm hồn dân Miến. Trong xã hội tăng già hay Phongyis chiếm một địa vị cao quý, quan trọng. Ảnh hưởng của họ chi phốikhắp các từng lớp dân chúng. Họ tham dự vào hết thảy mọi công tác từ thiện. Mỗi thôn xóm đều có một ngôi chùa gọi là Phong yikyaung để giúp đỡ, phát triển Phật sự trong vùng.

Trướckia, những chùa này đã góp phần đắc lực vào công việc giáo dục Miến. Hiện nay, nền giáo dục của chùa chiền đang được phục hưng. Những ngày lễ, vía nam nữ Phật tử lũ lượt đến chùa để nghe chư Tăng thuyết pháp. Các trẻ nhỏ đều được gởi đến chùa để chúng học giáo lý và học đọc, học viết. Theo phong tục Miến, mỗi thanh niên Phật tử đều phải thọ lễ “Shinpyu” để vào chùa tập tu suốt trong thời gian chư Tăng an cư (thườngvề mùa mưa chư Tăng không đi ngoài khất thực) hoặc khoảng một hay nhiềunăm, hoặc ít nhất là một tuần. Và khi vào ở chùa, họ sống đời tu sĩ y theo luật Phật chế. Tập tục này đang được ăn sâu dần vào đời sống xã hộiMiến.

MiếnÐiện cũng là xứ sở của lễ lược, hội hè. Văn hóa Miến bao gồm những ngàylễ này, vì đời sống và 2 phong tục Miến đều gắn liền chặt chẽ với Phật Giáo. Ở Miến, hai ngày lễ bắt đầu và mãn kỳ an cư của chư Tăng rất lớn. Thời gian an cư tịnh tu bắt đầu từ rằm tháng Wazo Miến Điện (khoảng tháng 06 hoặc 07 dương lịch). Lễ “Wazo” cũng gọi là “Lễ Hương Hoa” (Festival of Flowers). Suốt thời gian lễ Wazo, mọi thú vui giải trí đều được đình chỉ. Thay vào đó, người ta tổ chức nhiều cuộc bố thí giúp đỡ kẻ nghèo. Chư Tăng được tín đồ cúng dường những y phục mới cùng vật dụngthuốc men. Trong 03 tháng tịnh tu chư Tăng chuyên tụng kinh và thiền định. Vào những ngày lễ Wazo, Phật tử không bao giờ tổ chức lễ đám cưới hay dọn nhà.

Lễ“Thadingyut” hay “Lễ Ánh Sáng” (Festival of Lights) chấm dứt thời gian an cư của chư Tăng. Lễ này tổ chức vào rằm tháng Thadingyut (khoảng tháng 09 hoặc 10 dương lịch) với nhiều cuộc vui và bố thí kéo dài trong ba ngày. Ban đêm, các chùa, tu viện cũng như tất cả các gia đình Phật tửđều thắp đèn. Và toàn quốc Miến Ðiện như chìm ngập trong biển ánh sáng muôn màu sắc tuyệt diệu.

Lễ“Thingyan” hay gọi là “Lễ Dâng Nước” (Water Festival), tổ chức vào ngàyđầu năm Miến Ðiện, khoảng từ ngày 13 tháng 04 dương lịch. Sáng mồng một, sau khi tẩy trần tượng Phật trong nước hoa thơm, Phật tử có tục lệ cung thỉnh chư Tăng về nhà để cúng dường thọ trai. Lễ này kéo dài suốt ba ngày với nhiều cuộc vui. Ðặc biệt nhất là vào những ngày đó, dân chúng có tập tục đi tưới nưóc lẫn nhau. Và họ tin làm vậy là để chúc chonhau sự may mắn, an lành.

Lễ“Kason Nyaung Ye Thun” tổ chức vào rằm tháng Kason Miến Ðiện (đôi khi vào khoảng tháng 05 dương lịch). Trong ngày này, Phật tử có tục lệ đem nước đến tưới vào cây Bồ Ðề (Bodhi nyaung bin) để tưởng niệm ba trường hợp đức Phật Đản Sinh, Thành Đạo và Niết Bàn (Nhập Diệt).

Lễ“Tazaungdaing” tổ chức vào rằm tháng Tazaungmon, (giữa tháng 11 dương lịch), cũng là dịp để tín đồ thắp đèn sáng rực rỡ, và cúng dường tứ sự cho chư Tăng. Ngoài những ngày lễ chính thức trên, còn có nhiều lễ, hội hè Phật Giáo khác đuợc tổ chức tại các chùa tùy theo tập tục riêng của mỗi địa phương. Ðiều đáng chú ý là trong cuộc sống tu tập hằng ngày, Phật tử Miến luôn chăm nghĩ đến việc bố thí, trì giới và trau dồi trí tuệ.

Lúcnào, Phật tử Miến cũng sẵn sàng bố thí. Họ không những chỉ cho, giúp đỡthiên hạ thức ăn vật dụng mà còn cho bằng lời nói, ý nghĩ và việc làm trong sạch. Người ta thích nhận ở kẻ khác những lời nói an ủi dịu dàng hơn là cho họ thức ăn hay sức khỏe. Vì khi tâm trí họ nhẹ nhàng, dĩ nhiên lúc ấy thân xác của họ sẽ được khỏe mạnh. Ðối với những bệnh nhân đau khổ thì không gì giúp họ chóng bình phục hơn bằng sự an ủi trìu mến của Phật tử chúng ta.

Chúngta có thể bố thí (Dàna) mà không cần có tiền. Chúng ta có thể cho ngườiđói thức ăn, kẻ khát nước uống, người rách rưới áo quần, hoặc nhường chỗ ngồi cho những bạn đồng hành trên một chuyến xe đông khách. Chúng tacó thể dùng lời nói êm dịu để an ủi những tâm hồn đau khổ, chăm sóc giúp đỡ bệnh nhân với tất cả tình thương, hoặc luôn tươi cười vui vẻ vớimọi người.

Nụcười tuy là một vốn liếng rất nhỏ, nhưng đem lại cho chúng ta nhiều lợiích lớn. Những lời nói hiền hòa và hành động tốt đẹp của chúng ta bao giờ cũng sẽ mang lại cho mọi kẻ sung sướng lẫn đau khổ nhiều nguồn vui đẹp đẽ biết bao nếu hằng ngày Phật tử chúng ta biết đem gieo rắt những hành động từ bi đó khắp mọi loài. Và sự lợi ích của cách bố thí này cũngchẳng kém gì phương pháp tài thí, cho người đồ mặc thức ăn. Nhưng cách bố thí cao cả nhất là pháp thí.

Giớiluật giúp con người trở nên đạo đức. Thiếu giới luật, con người chỉ là một con vật luôn luôn thô lổ, hung tợn và tàn bạo ; một kẻ vô cùng độc ác xấu xa. Nó có thể bóp cổ, giết vợ, đâm con, chém bạn hay đồng bào, cưỡng hiếp thiếu nữ hoặc đánh dập tàn nhẫn kẻ tôi đòi. Nó có thể hành hạcha mẹ, bạc đãi vợ con. Nó có thể căm thù và xử tàn nhẫn với mọi người.Kẻ nào xa lìa giới luật, họ sẽ dễ nói và hành động sai lầm. Nhưng ngườigiữ giới được rất ít.

Phầnđông thiên hạ không ai giữ đặng những điều răn căn bản của đức Phật dạynhư quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và thọ trì năm giới cấm là không sát sanh, trộm cắp, vọng ngữ, tà dâm, uống rượu. Người Phật tử trái lại,tối thiểu phải giữ được các điều trên, và cố gắng chu toàn bổn phận làmcon đối với cha mẹ, đạo thầy trò, chồng vợ, chủ tớ đúng theo lời Phật dạy trong Kinh Thi Ca La Việt (Sigalovàda). Một người dù họ giàu có hoặcquyền cao chức trọng đến đâu mà không giữ được các giới điều căn bản vừa kể thì họ vẫn chưa xứng đáng là một người có đạo đức.

TạiMiến kẻ nào cần cù siêng năng, biết quy y thọ giới theo Phật, đều có thể chóng trở nên sung sướng giàu có, bởi lẽ họ được mọi người mến chuộng. Bao giờ họ cũng có uy tín hơn những bạn khác và luôn được quần chúng trọng đãi thán phục. Họ không lo sợ, nắm chắc thành công khi phải ra đời mưu sinh. Họ chết trong sự an lành, bình tĩnh với niềm tin đời sau của mình sẽ tốt đẹp. Cho nên Giới là điều kiện căn bản cho sự phát triển trí tuệ, là cửa ngỏ đưa đến sự giác ngộ hoàn toàn, là con đường chắc chắn hướng mọi người đến an lạc, hạnh phúc chân thật của Niết Bàn.

* Theo tạp chí“The International Buddhist News Forum”, số tháng 2-1962

HT Thích Trí Chơn chuyển ngữ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2022(Xem: 8551)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 5488)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 4133)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
19/02/2022(Xem: 6331)
Nhân Tết Nhâm Dần, với tâm niệm hộ trì Tam Bảo và mừng tuổi chư Tăng tu hành nơi xứ Phật chúng con, chúng tôi vừa thực hiện một buổi cúng dường Trai Tăng & tịnh tài đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ thường trú tại khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo..
18/02/2022(Xem: 5209)
Phải công nhận với đà tiến triển kỹ thuật văn minh của vi tính, những gì ta có thể được tiếp xúc, thọ nhận sẽ nhiều hơn ngày trước ngàn lần ... khiến chúng ta đã có thể thay đổi dễ dàng theo sự tiến hóa của nhân loại và mở rộng sự hiểu biết với thế giới bên ngoài, hơn thế nữa ký ức chúng ta cũng được lưu lại dưới dạng hình ảnh, những bài pháp thoại và những trang cập nhật có thể truy cứu trong vài phút ...đó là lý do tôi ao ước được viết lại cảm nghĩ của mình khi nghe lại bài pháp thoại tuyệt vời từ 6 năm về trước tại Tu Viện Quảng Đức. Kính xin niệm ân tất cả nhân duyên đã cho tôi có cơ hội này ....
17/02/2022(Xem: 6811)
Cháu tìm ra chút nhân duyên Trời cao biển rộng ngoại tìm ra không? Non xanh nước biếc phiêu bồng Về già ngoại vẫn đếm đong đi tìm Một đời bay mỏi cánh chim Nghiệp duyên ba nổi bảy chìm xang bang Lên non xuống biển tìm vàng Nhân duyên bắt được chỉ toàn đá rêu
17/02/2022(Xem: 4408)
“Một con én một đoạn đường lay lất Một đêm dài nghe thác đổ trên cao Ta bước vội qua dòng sông biền biệt Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
17/02/2022(Xem: 4529)
Phần này tiếp theo loạt bài “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes” về các Kinh Lạy Cha và Kinh A Ve (đánh số 5 và 26). Bài này chú trọng đến các dạng chữ Nôm trong bản Kinh Tin Kính (KTK) của LM Philiphê Bỉnh, đặc biệt là từ tài liệu của các LM de Rhodes và Maiorica, và cũng so sánh với các dạng chữ quốc ngữ trong tài liệu chép tay của cụ Bỉnh.
15/02/2022(Xem: 8487)
Với mục đích quảng bá Phật Pháp miễn phí đến những vị muốn Tu học Phật Pháp, Rèn luyện Anh ngữ, Luyện Dịch Việt-Anh hoặc Anh-Việt, (nhất là những vị đang sinh sống, hoặc sẽ đi hay đang du học, ở những quốc gia sử dụng tiếng Anh – cũng là ngôn ngữ quốc tế được sử dụng khắp thế giới). Thế Giới Phật Giáo .org đã thực hiện sách Song ngữ ANH-VIỆT Đối chiếu (từng đoạn văn Rất NGẮN để dể đối chiếu) sau đây.
13/02/2022(Xem: 6050)
Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]