Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cúng dường trái ớt đỏ

26/03/201702:17(Xem: 8303)
Cúng dường trái ớt đỏ

trai ot


CÚNG DƯỜNG TRÁI ỚT ĐỎ


 
Mỗi sáng Chủ Nhật , quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên “ Buddhism “ mà không hề biết đó là gì ? 

Hình thức của một vị Sư Phật Giáo người Tây Phương, theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) với cái đầu cạo nhẵn, mình khoát tấm y màu vàng đất sét, đi chân trần, không giày dép gì cả, tay ôm một cái hộp tròn cở quả bí đỏ nhỏ có nắp đậy, họ im lặng đi hàng dọc, cách khoảng đều nhau, thanh thản từng bước chân trong chánh niệm. Khi đến một ngã rẽ, quý Sư chia làm hai toán, một toán đi vào khu cư dân, còn toán kia thì ra các dãy phố, quý Sư thường đứng lại ở các góc đường, hoặc trước cửa, cổng nhà các cư dân . Dân chúng nơi đây nhìn thấy quý Sư họ rất ngạc nhiên với nhiều thắc mắc: 
- “ họ là những người nào vậy nhỉ ? ” - “ họ đi đâu vậy? – và để làm gi ? ” 

- Một vài người với phản ứng rất hợp lý là không tự tìm câu trả lời mà gọi điện thoại báo với cảnh sát, để đề phòng và cũng để nhờ cảnh sát đến tìm hiểu, hỏi xem “ nhóm người kỳ lạ nầy là ai? Và họ muốn gì ? “ - Một số người khác thì muốn tự mình tìm hiểu, họ mở cửa ra chào theo bản tính thân thiện và lịch sự của người Úc – “ Xin chào quý vị, chúng tôi có thể giúp gì cho quý vị đây ? “

Những phản ứng nầy là một cơ hôi để quý Sư gieo chút duyên lành với người dân bản xứ, Quý Sư đã giải thích với cảnh sát và người dân địa phương:

- “ Chúng tôi là những tu sĩ Phật Giáo, tu viện của chúng tôi mới được thành lập ở khu rừng gần đây, tên của tu viện chúng tôi là “Santi Forest Monastery “, hôm nay chúng tôi đi khất thực, để mong được quý vị bố thí cho chúng tôi một ít thức ăn, truyền thống tu tập của chúng tôi là đi khất thực để độ nhật và ngỏ hầu được tiếp xúc, gieo duyên với quần chúng... “

Với một tư thái trang nghiêm, gương mặt điềm tĩnh, thái độ an nhiên và với một chất liệu từ bi lan tỏa được biểu hiện trong ánh mắt, trong từng lời nói nhu hòa; Từng thắc mắc của cư dân, những câu hỏi của cảnh sát đã đươc quý Sư giải thích, và cũng từ đấy, hình ảnh của những nhà Sư Phật Giáo người Úc đi khất thực vào mỗi sáng chủ nhật ở Bundanoon (*) dần dà trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, họ chỉ cảm thấy không còn lo lắng nữa vì đã biết quý Sư là ai, ôm bình bát đứng trước nhà, trước shop của họ để làm gì, nhưng biết là biết vậy thôi, chứ ý niệm “cúng dường” vẫn là một điều gì còn quá xa lạ, quá bỡ ngỡ trong tập quán sinh hoạt của họ. Đó là chuyện cũng tự nhiên là như vậy thôi, về phần quý Sư thì vẫn cứ an nhiên tự tại, với lộ trình đi khất thực vào mổi sáng Chủ Nhật hàng tuần.

Qua những tháng ngày mới đến đây để thành lập một lâm tu viện theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, với một nét văn hóa Phật giáo hoàn toàn xa lạ với cư dân địa phương, việc đi khất thực mỗi ngày là điều không thể thực hiện được, nhưng mỗi tuần một buổi sáng Chủ Nhật đi khất thực của quý Sư đã trở nên một sinh hoạt gần gủi thân quen, hình ảnh những nhà Sư, tay ôm bình bát, chậm rải bước đều, và những nụ cười hiền hòa tỏa sáng, những lời giải thích ân cần…, dần dần, cư dân địa phương và những vùng phụ cận, đã bắt đầu hiểu được phần nào Phật giáo là gì ! – Đức Phật là ai ! … - Ngôi tu viện trong khu rừng yên vắng, bên cạnh những ngày Thiền tập của quý Sư nay đã có những buổi thuyết giảng về giáo Pháp Phật Đà và giảng dạy phương pháp thực hành Thiền tập cho mọi tầng lớp dân chúng quanh đây.

* * *

Chư Sư vừa đi khất thực trở về, nhóm cư sĩ chúng tôi phụ trách buổi ngọ trai hôm nay được quý Sư giao cho những chiếc bình bát, đem vào sớt bát để sửa soạn cho việc cúng dường buổi ăn trưa. Mở những chiếc bát của quý Sư vừa đi khất thực về, chúng tôi thật sự quá đổi nghẹn ngào, có bát thì được một cái bánh Pie, có bát nhận được một trái Táo ( Apple ), một chùm nho tươi một nhánh cần tây, và hầu hết mọi bát đều có nhận được chút ít cúng dường của cư dân thí chủ và… dĩ nhiên là không thể nào đủ dùng cho một buổi trưa, vì thế nhóm Phật Tử chúng tôi vẫn luân phiên đảm nhận việc nấu bếp, cúng dường buổi trưa cho quý Sư.
Đang lay hoay với những chiếc bình bát vừa được trút ra để ghi nhận những phẩm vật cúng dường của buổi khất thực hôm nay, bổng Sư trụ trì tu viện bước xuống bếp, Sư nở một nụ cười rất đổi hân hoan: 
- Oh, we get a lot today ! ( Ồ, hôm nay chúng ta được nhiều nhỉ ! )

.Thưa vâng, chúng tôi hiểu, Sư nói “ hôm nay khất thực được nhiều” là so với những ngày đầu mới đi khất thực ở đây, có hôm cả đoàn khất thực trở về chùa với những chiếc bình bát trống không, có bửa chỉ mỗi bình bát của sư trụ trì có được một trái chuối, vậy mà đi khất thực về, lúc nào quý Sư cũng đều rất vui, không phải nhận được thức ăn cúng dường nhiều hay ít, mà niềm vui của quý Sư là có cơ hội để giáo hóa quần chúng, hầu mong Phật pháp sẽ lần hồi được thấm đượm vào lòng, vào nếp sống của người dân quanh đây, và đi khất thực cũng là một trong những pháp tu mà quý sư phải chuyên tâm hành tập.

Sư hướng tia nhìn vào số phẩm vật rồi hỏi chúng tôi :
- Các anh có tìm thấy trong bát của tôi, hôm nay có một trái ớt chín đỏ chứ nhỉ ?
- Thưa Sư, dạ có,
Sư mĩm cười hài lòng và ân cần dặn chúng tôi:
- Các anh vui lòng cắt nhỏ quả ớt ấy vào chén xì dầu trong phần cúng dường hôm nay nhé ! – nhớ đừng quên nghe ! –quan trọng lắm đấy, vào lúc cầu nguyện cho buổi ngọ trai, tôi sẽ kể cho toàn thể đại chúng nghe về buổi khất thực hôm nay.
Trong lúc làm nghi thức dâng cúng thức ăn cho quý Sư, chúng tôi ghi nhận, Sư trụ trì đều nhắc chư Sư đừng quên chan một tí xì dầu ớt vào bình bát của mình, Sư còn nói rỏ: - “ nếu quý Sư không ăn được ớt thì cũng nên chan một tí vào, không có sao đâu, nhớ là mọi người phải chan tí xì dầu ớt vào bát mình nhé !, tôi sẽ giải thích với quý vị trong nghi thức cầu nguyện khi tho trai.”


khat thuc

* * *
 
Trước khi thọ trai, bao giờ cũng có đôi lời của Sư Trụ trì, tiếp theo là bài kinh hồi hướng công đức của thí chủ và sau đó là phần thọ trai.

Sư lên tiếng chậm rải nói:
- “Hôm nay đi khất thực, tôi đã gặp được một bà lão đang ở trong mãnh vườn nhỏ nơi sân trước của nhà bà, bà lão trông rất già yếu nhưng vẫn tự mình đi đứng được, khi gặp tôi, bà lão đã ân cần hỏi han với những câu hỏi thông thường mà những người khác trước đây vẫn hỏi, như là: – “ Ông là ai, làm gì? – tôi có thể giúp gì cho ông ? …”

Sau khi nghe tôi giới thiệu và giải thích về mình là một vị Sư Phật Giáo, đang đi khất thực để xin được bố thí thức ăn và mong được có cơ hội để tiếp xúc với quần chúng …
Bà lão với một gương mặt rất thuần hậu, hướng tia nhìn về tôi với đầy nét nhân từ và cất giọng run run nói với tôi rằng: - “Thật tiếc quá, nghe Sư giải thích, tôi rất muốn cúng dường một thứ gì đó có thể ăn được, nhưng hiện tại, tôi phải chờ đến trưa thì người ta mới đem giao thức ăn cho tôi, nên chẳng biết phải làm sao đây ? !”

Nghe vậy tôi trả lời với bà lão : - “Không sao cả, cám ơn bà đã có tấm lòng và ý tốt như vậy là tôi đã nhận được sự cúng dường của bà rồi, xin bà đừng bận tâm, chúng tôi sẽ có dịp trở lại đây trong những lần tới.”
Tôi chưa kịp ngỏ lời chào từ biệt bà, thì bà vội lên tiếng: - “ hay là Sư có thể cho phép tôi cúng dường một ít tiền và Sư dùng nó để mua thức ăn cho Sư để dùng cho trưa nay được chứ ?”

Tôi bèn giải thích thêm với bà : - “giới khất sĩ chúng tôi đi khất thực, chỉ xin được nhận thức ăn mà thôi, trong giới luật, Đức Phật không cho phép tu sĩ chúng tôi được cầm giữ tiền.”

Nghe đến đây, bà lão vụt kêu lên: - Oh, my god ! what can I do for you now ? ( Trời ơi, vậy tôi có thể giúp gì được cho Sư bây giờ đây ? )
Tôi lên tiếng trấn an bà lão : - “ Không sao cả, bà có thể cúng dường cho tôi bất cứ một thứ gì có được trong vườn hiện giờ của bà là tốt rồi.”

Nghe thế, mắt bà lão chợt vụt sáng lên và nhanh nhẩu: - “ Thật sao ?, Sư chờ tôi một tý nhé ! “
Bà lão bước dăm bảy bước về phía góc vườn và quay lại tôi với một nụ cười chơn chất và với một trái ớt chín đỏ trên tay: - “ Thưa Sư, đây là thứ duy nhất tôi có thể có được ngay bây giờ để cúng dường Sư, mong Sư hoan hỷ nhận cho.”

Kể đến đây, Sư nhắm mắt lại và lặng im trong thoáng chốc, như để mang trọn tấm lòng thành cúng dường của bà lão để chia sẻ cùng với tất cả mọi người đang nghe câu chuyện về “ Trái Ớt Cúng Dường” của buổi khất thực sáng hôm nay. 

Bằng một giọng trầm tỉnh sâu xa, Sư kể tiếp : - “ Tôi vô cùng hoan hỷ, đón nhận tấm lòng cúng dường của bà lão với Trái Ớt chín đỏ của bà và nói lời cảm ơn, cùng mời bà im lặng để tôi đọc tụng chúc lành cho bà và gia đình một bài kinh ngắn bằng tiếng Pali, nghe bài Kinh xong, dầu bà không hiểu gì, nhưng tôi ghi nhận được sư rung động trong tâm thức của bà qua ngấn lệ tuông tràn trên đôi gò má nhăn nheo, tôi đã nói với bà:
- “ Trái ớt nầy vô cùng quý báu với tôi trong buổi khất thực hôm nay, buổi ngọ trai trưa nay, đích thân tôi sẽ thay mặt bà, để mời toàn thể chư Tăng Ni cùng thọ nhận sự cúng dường của bà và cùng đọc kinh hồi hướng công đức cho bà, Trái Ớt chín đỏ của bà đặt vào bình bát cúng dường là một phẩm vật được dâng cúng với cả tấm lòng, nên sự cúng dường ấy thật vô cùng to lớn với ý nghĩa của nó.”

Quay về phía chư Tăng Ni, Sư tiếp : – “Thưa quý Tăng Ni và quý Phật tử, câu chuyện vừa kể để giải thích tại sao tôi ngỏ lời mời tất cả chư vị nên chan tý xì dầu ớt vào bát của mình là để thọ nhận sự cúng dường lớn lao của tấm lòng bà lão sáng nay. Kính mong chư Tăng Ni cùng đọc kinh cầu nguyện và hồi hướng công đức cúng dường đến toàn thể các thí chủ.”

Lời kinh tiếng Pali trầm hùng vang lên trong điện Phật của một ngôi tu viện Phật Giáo trong một khu rừng núi xa xôi yên vắng với các vị Sư người Tây Phương da trắng mắt xanh, như hòa quyện cùng với cảnh vật chung quanh, tiếng tung kinh lan tỏa, rừng cây rung nhẹ tiếng xào xạt của những cành lá đong đưa, tất cả đã ngân lên một tấu khúc thương yêu của tấm lòng từ bi tỏa ngát cùng hương rừng gió núi, nhẹ lan trong tâm thức nguyện cầu.


GIA HIẾU



* Bundanoon là tên của một thị trấn thuộc khu vực cao nguyên của miền Tây Nam Tiểu Bang NSW – Australia, cách thành phố Sydney 150 Km.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/10/2019(Xem: 10844)
Kết thúc thời công phu sáng mặt trời cũng vừa ló dạng,những tia nắng ấm áp lan tỏa khắp nơikhiến cho mọi người thấy dễ chịu.Sự hội tụ của muôn ngàn tia nắng đang nhảy múa,chuyển động những tia sáng rực rỡ, trong thoáng giây,toàn thể không gian hoàn toàn biến đổi,và tất cả trở thành những dải ánh sáng đang rung động xoay vần trong một vũ điệu của thiên nhiên. Qua cửa sổ nhìn mây trôi bồng bềnh giữa trời xanh,tận hưởng cảm giác êm ả,hít thở những làn gió mát rượi vào buổi sớm mai, giữa không gian yên tĩnh,trong tôi bao niềm cảm xúc, thầm cảm ơn những gì có được của hiện tại:
25/10/2019(Xem: 7573)
Kinh Thắng Man, nói đủ theo bản dịch của Cầu-na-bạt-đà-la là Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Đại Quảng Kinh. Nhưng, chương cuối của kinh này, đức Thế Tôn nói với Thiên Đế Thích có đến mười lăm tên gọi khác nhau. Tên gọi thứ nhất của kinh. là: “Thán Như lai chân thật đệ nhất nghĩa công đức”.
25/10/2019(Xem: 9538)
Đọc chuyện Tấm Cám, ta thấy ai cũng thương Tấm. Tấm mẹ chết sớm, cha lấy thêm vợ, sinh ra Cám, em cùng cha khác mẹ với Tấm. Không bao lâu cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ và sống với người em gái cùng cha khác mẹ.
24/10/2019(Xem: 7050)
Xưa và nay, ai sinh ra trong cuộc đời nầy cũng phải trải qua con đường giáo dục mà thành tựu những giai đoạn của sự học vấn, kể từ lớp mẫu giáo cho đến Đại Học hay hậu Đại Học. Cũng có nhiều người không qua sự giáo dục, nghĩa là không qua trường lớp đào tạo, nhưng cũng thành công ở xã hội và học đường, số người nầy cũng không phải là ít. Tuy nhiên những người nầy thuộc dạng cá biệt và đặc thù, nên không đề cập trong bài nầy về những người ưu tú như vậy, mà chỉ nhấn mạnh đến việc giáo dục chung chung để trở thành con người có văn hóa thực sự.
20/10/2019(Xem: 8316)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.Kinh Tăng Chi Bộ là bộ kinh thứ Tư trong số năm bộ kinh Nikàya.Đó là: Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi BộKinh và Tiểu Bộ Kinh. Kinh điển Phật giáo hiện nay còn lại 2 bộ kinh xưa nhất. Một bộ được ghi lại bằng tiếng Pàli gọi là Kinh Nikàya, còn một bộ xử dụng tiếng Sanskrit gọi là Kinh Àgama (A-hàm) gồm bốn Bộ là: Kinh Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng Nhất A-hàm.
17/10/2019(Xem: 6403)
Chúng ta đang sống trong thời cách mạng thông tin. Nơi đó, lợi và hại cùng đi bên nhau, thiện và ác cùng sinh khởi dễ dàng từ một bàn phím. Chiến trường có khi hiện ngay trên màn hình vi tính, đao kiếm là những ngón tay quẹt trên điện thoại. Những lời bình ngắn và ác ý trên mạng xã hội cũng có sức mạnh đẩy một số ca sĩ nổi tiếng vào trầm cảm, có khi tới mức tự sát. Những hình ảnh sửa đổi, giả mạo, gán ghép khi phóng lên mạng đã trở thành vũ khí bôi nhọ mới. Những lời quy chụp vô căn cứ đưa lên YouTube lại được nhiều người tin tưởng và hùa theo chửi mắng. Không chỉ là quân đội nước này với nước kia, chính người đời thường với kỹ năng công nghệ cũng có thể gài bẫy nhau, hại nhau cả trăm đường. Chỉ một vài bản tin nhỏ, có khi được viết một chiều và không nói hết sự thực, ngay hôm sau đã trở thành những cú xì căng đan chấn động xã hội. Nạn nhân có thể là cả một dân tộc, như khi bản đồ Biển Đông bị vẽ lại và phổ biến khắp thế giới mạng. Nạn nhân cũng có khi là nữ ca sĩ Nhật Bản hay Đà
16/10/2019(Xem: 4485)
Còn nhớ trong kinh thường dạy " Ở nơi nào mà giáo lý Đức Phật chưa được truyền đến thì người ta cứ tranh chấp nhau và không thể mở rộng tâm mình". Dù cho anh em, cha mẹ có sống chung với nhau nhưng mỗi người đều sống tách biệt trong thâm tâm của mình . Họ luôn sống trong cô độc vì họ không có ai để nương tựa ( niềm tin ) và luôn nghi kỵ lẫn nhau nhưng .....một khi Phật pháp truyền đến hết thảy họ đều có thể trở thành bè bạn hay một người thân đích thực và một người vốn cô đơn nay bổng trở nên hạnh phúc vì chung quanh có nhiều bạn tốt, người thương tin yêu .
13/10/2019(Xem: 6290)
Trong cuộc đời này, nói rộng ra ở cõi Ta Bà này, từ Đông sang Tây, con người thường bị mê mờ hay mê luyến vào hình tướng bề ngoài và quên mất hay đồng hóa nó với thực tướng/bản chất/nội tâm ở bên trong. Nguyên do chỉ vì chúng sinh vọng chấp vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh tâm mình (Kinh Viên Giác). Thí dụ: -Một cậu thanh niên thấy một cô người mẫu, hoa khôi, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế… tưởng đó là “người trong mộng” hay “người yêu lý tưởng”. Khi lấy về thì bao nhiêu tính xấu mới lộ ra, bao xung đột vì khác tính tình. Mối tình trong mộng nay biến thành “oan gia trái chủ” khiến cười đau khóc hận. -Một cô gái thấy một anh chàng hào hoa, đẹp trai, cử chỉ lịch sự…tưởng đó là “hoàng tử của lòng em”, lấy về mới tá hỏa ra đó là anh chàng Sở Khanh, tốt mã giẻ cùi…thôi thì vỡ mộng.
07/10/2019(Xem: 7168)
Tật bệnh. Có bệnh phải uống thuốc đó là chuyện đương nhiên. Uống thuốc để chữa bệnh, để mau hết bệnh. Nhưng thuốc tốt, uống đúng thuốc, đúng liều lượng thì mới có khả năng lành bệnh. Đây, không còn là chuyện đương nhiên, mà là sự mong muốn, lòng khát khao. Ai cũng ước mong không có bệnh. Khi có bệnh mong được gặp thầy giỏi, uống đúng thuốc và sớm khỏi bệnh.
05/10/2019(Xem: 7893)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe những lời bàn tán có tính cách phê phán như: "Nhân cách của ông A thật là hoàn hảo" hay "Tư cách người đó không ra gì...." hoặc "Sống sa đoạ quá làm mất cả nhân cách" v.v... và v.v... Vậy nhân cách là cái gì? Thông thường, người ta giải nghĩa Nhân là người, Cách là tư cách, là phẩm chất, là giá trị, là tư cách làm người... Như vậy Nhân cách là một thứ giá trị, phẩm chất đạo đức của mỗi con người được xây dựng và hình thành trong suốt thời gian con người đó tồn tại trong xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]