Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Làm Chủ Tâm Mình

30/03/201703:24(Xem: 6271)
Làm Chủ Tâm Mình


lotus_8

LÀM  CHỦ  TÂM  MÌNH

                                                                       

Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước có nói đến Tâm là chủ tể. Đích thực, con người trên đời này làm nên vô số việc tốt, xấu, học hành, nên danh, nên nghiệp, mưu sinh sống đời hạnh phúc, khổ đau, cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật, thành Thánh, Nhân bản, v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo). Qua đây cho ta thấy rằng; tâm là con người thật của con người, (động vật có linh giác, giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra, bản thân con người, chỉ là một khối thịt bất động.

      Mặc dù tâm là con người thật của con người nhưng, tâm phải được rèn luyện văn chương Nhân bản, đạo lý Thánh hiền, kinh văn Phật học, thì mới có thể thành con người thật có trí tuệ. Do có trí tuệ, tâm luôn chánh đạo nhân bản, là nền tảng thành công tốt đẹp mọi việc đời, đạo. Việc đời, là làm đúng theo công thức, kỹ thuật, họa đồ (plan) trong xí nghiệp, nghành nghề mưu sinh đúng theo pháp luật…Việc Phật, làm đúng theo giới luật Phật và chánh đạo,(8 con đường chánh).Tất cả do tâm chơn chánh nói chung, có mặt cùng lúc với thân trong các việc đời, đạo. Giống như trong một cơ xưỡng, luôn có ông chủ bên cạnh công nhân. Thì các công nhân ai cũng siêng năng làm việc đúng kỹ thuật, phẩm chất. Nếu không nói rằng; tâm ở lãnh vực này, như một ông thầy dạy nghề, hướng dẫn cho học viên thực  tập không sai kỹ thuật. Đúng như ngạn ngữ VN “không thầy đố mầy làm nên”. Đúng như vậy, tâm có đạo lý Phật, Thánh, Nhân bản luôn làm chủ, chỉ đạo bản thân trong lúc hành động các việc được đúng cách, chính xác công thức, phẩm lượng…Tức là không sai nguyên lý cơ bản. Ngược lại bị sai, do tâm lang thang bên ngoài công việc, không làm chủ tâm, bởi thiếu rèn luyện những đạo lý trên.

    Ý nghĩa làm chủ tâm, là đem tâm tư duy, nhận thức nhiều lần về việc gì ngoài đời, điều chi trong đạo Phật, để thấy kết quả tốt, xấu trước khi làm, đúng như câu cách ngôn” Phàm làm việc gì, phải nghĩ đến kết quả của nó”.Sau đó xét thấy kết quả xấu, là chỉ lợi mình, hại người. Nếu ra tay hành động, bị phạm luật Pháp, sai giới luật phật. Với người, là gây tác hại thân mạng người khác, khổ đau cho bản thân, gia đình, bằng hữu chia rẽ, người trí chê cười, lợi nhất thời, nguy hại muôn đời bị nhân quả báo ứng ngàn đời mai sau. Cuối cùng làm chủ được tâm, không làm những việc phi pháp đó. Với những việc hợp pháp, không từ nan, ra tay quyết tâm làm cho bằng được nhưng, cũng phải làm chủ tâm, để chỉ đạo cho thân hành động, thì mọi việc mới được có kết quả tốt, đúng phẩm chất, kỹ thuật, công thức.

   Vấn đề làm chủ tâm ở các ciệc đời, đạo để hành động đúng chánh đạo, kỹ thuật, chính xác phẩm chất,v.v…,là do tâm an trú ở trạng thái thanh tịnh, không bị lây động trước mọi cảnh giới, được phái Thiền nói đến, đưa vào công án, là đưa tâm sống trong  tỉnh giác, tỉnh thức trong mọi môi trường, hoàn cảnh thực tại một cách thường trực(thường hằng thanh tịnh), thì mọi việc mới có kết quả trọn vẹn đúng cách, đúng đạo. Điều đó, ta thường nghe quý Thiền Sư căn dặn các Thiền sinh: lái xe phải biết mình lái xe, đi vững chải biết mình đang bước chân trên đất, thở vô ta biết ta đang thở vô, thở ra ta biết ta đang thở ra, nấu cơm, quét sân, đóng cửa chùa, đánh máy, chạy máy tiện, máy cưa, dệt vải, v.v… phải nhớ làm chủ tâm (tỉnh thức) vào những công việc ấy. Không thể một việc mà hai tâm có mặt cùng lúc. Nói rõ hơn, chỉ có một tâm tỉnh thức trong từng mỗi việc đang làm.Tâm đó là con người thật của ta suốt cả cuộc đời. Nếu để hai tâm con Vượn, con Ngựa có mặt trong lúc làm mọi việc, thì nhất định công việc bị đổ vỡ, không thành, tâm hồn bị điên đảo, tâm đó không phải con người thật của ta.

   Phái Thiền cẩn thận cho đến nỗi, có lời khuyến cáo những hành giả đi tìm con đường giải thoát trong đạo Phật qua sự tu tập các pháp môn Thiền, Tịnh, Mật…,luôn làm chủ tâm mình, là không nên đặt tâm vào mọi cảnh giới, gọi là không trụ tâm.Tức là đối cảnh vô tâm(ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm), là nền tảng ngăn chặn, nhận chìm những tạp niệm vốn có từ vô thủy, đang nằm im trong tạng thức, chúng có thể sẵn sàng vươn lên quấy động, làm cho tâm hành giả mất tỉnh thức, bị rối loạn, do không làm chủ tâm an trú chánh niệm, tỉnh thức, vì để tâm bị trôi lăn trên dòng vọng niệm, thì nhất định các việc không bao giờ được thành tựu.

     Thiền chủ trương hành giả tu thiền, chỉ có một niệm, là niệm tỉnh thức, không có niệm khác xen kẽ vào, dù có đối cảnh nhưng, tâm không sanh tình. Mặc dù hành giả tu thiền đang có mặt giữa trường đời đầy ô trược, là môi trường thực tập có hiệu quả nhất, phải thấy vô số cảnh và người, là điều không thể tránh khỏi. Nhưng mắt thấy cứ thấy, bởi tánh thấy của mắt. Chẵng lẽ nhắm mắt. Nghe âm thanh, là cứ nghe bởi tánh nghe của tai, chẵng lẽ bịt tai. Hai cái thức Mắt và Tai này, nói chung 5 thức trước (mắt, tai, mũi, miệng và thân) không liên đới với tâm, gọi là độc câu ý thức trên vận hành làm chủ tâm trong các việc đạo, đời.

     Với hành giả tu thiền và kể cả người tu tịnh độ, hay tu quán niệm thực tướng các pháp là vô ngã, để đạt tâm vô ngã ngay giữa dòng đời. Tất cả đều làm chủ tâm, là không đem tâm phân tích, khái niệm, nhận thức mọi cảnh khi nhìn thấy, mọi âm thanh khi nghe đến. Đối trước mọi người quen hay lạ, khi bắt gặp ở bất cứ nơi đâu, ngoài lời chào hỏi thông lệ ra, liền giữ tâm tỉnh thức, không khởi tâm nói thầm (khen, chê )dán nhãn đối tượng thế này, thế kia. Bốn phái tu Thiền, Tịnh, Mật và Quán niệm, rất khắc khe đối cảnh mà sanh tình như vậy. Nếu sanh tình qua đối cảnh, đối tượng, dù là tình cảm, bốn hành giả nói trên, sẽ  bị  đánh mất Chơn tâm.

  Hành giả 4 phái ấy, trên bước đường hành đạo, tất cả đều có chung “Chơn tâm thanh tịnh tuyệt đối” như đã nói, sau khi đã học qua lý thuyết của bốn Pháp Thiền,Tịnh độ, Vô Ngã. Nếu không nói rằng; Lý bao giờ cũng làm sáng tỏ Đạo. Cho nên các hành giả học qua lý thuyết  bốn pháp trên, đã được thấy các ĐẠO : Tâm không, Vô ngã, Nhất tâm bất loạn, từ lâu rồi do qua quá trình học, không hạn định thời gian lâu mau, nhiều bài hay ít. Miễn sao đủ, để  thấy Đạo mà hành, cho nên đã thấy đạo rồi, thì hành theo đạo. Hành đạo là sống đúng theo điều mình đã hiểu, đã ngộ. Qua đây cho ta thấy Phật Học, không phải chỉ là cái Đạo để học, mà còn là cái Đạo để sống, sống trong cái tâm thanh tịnh, thường hằng bình đẳng nhất nguyên suốt cuộc đời hành đạo, cho đến khi đạt đạo. Ba thứ ngộ Đạo, hành Đạo và đạt Đạo gắn liền nhau trong tâm hành giả.

    Do vậy, các hành giả luôn làm chủ tâm mình trong lúc thực hành các đạo lý ấy ngay giữa trường đời, chứ không còn đem tâm phân tích, khái niệm nữa. Nếu còn, tức là chưa thấy Đạo Vô ngã giải thoát. Vì thế,Thiền chủ trương Bất lập văn tự là như vậy (sự hiểu của người viết). Có nghĩa là các hành giả học Phật qua lý thuyết trước, rồi mới được thấy Đạo, thực hành theo Đạo để được giác ngộ chứng Đạo. Giống như học sinh làm bài toán quỷ tích, phải dựa trên giả thuyết, vẽ ra sẽ thấy quỷ tích chạy trên hình gì, vuông, chữ nhật, tam giác… Vì thế, để kiểm tra thiền sinh mình đã liễu đạo hay chưa, các vị Đạo sư  hỏi lý thuyết. Thiền sinh nói liền, không suy nghĩ, phân vân, dù một giây cũng không được. Vì chưa thâm nhập, ngộ đạo, không thể hành đạo được.

   Hành giả học Phật, cho mục đích tìm cầu con đường giải thoát, không thể không làm chủ tâm mình trong lúc hành Đạo. Làm chủ tâm trên bước đường hành Đạo, giống như người chăn trâu đi tìm con trâu bị mất. Đi tìm trâu phải theo đúng dấu chân trâu. Dù con trâu bị mất là trâu Già, Tơ hay Nghé, chân đều giống nhau, chỉ khác lớn hay nhỏ, cho nên nó lên dốc, xuống trũng, vòng qua nương dâu…người đi tìm vẫn thấy dấu chân nó, không lẫn lộn với dấu chân Hưu, Nai, Bò, cho đến khi nào gặp được, dắt trâu về. Qua đây, cho ta thấy rằng; tất cả pháp môn tu của Phật, đều cùng một vị giải thoát (đạo giải thoát). Dù cho Pháp môn Thiền,Tịnh Mật, Quán niệm ,Quán chiếu,v.v…, gọi là Pháp môn nhỏ, pháp môn lớn. Tất cả đều có cùng đạo giải thoát, như các giống gạo Tẻ Nàng hương, Ba trăng… Nếp hạt tròn, hạt dài…, nấu lên sẽ thành cơm, một hạt cũng thành cơm. Nói rõ hơn, tất cả pháp môn tu của Phật, lớn, nhỏ, khó, dễ, đều cùng một vị giải thoát, đó là Chơn tâm, vô ngã. Điều này, được Phật đem lời căn dặn hàng Phật tử tại gia: “làm các việc  thiện, từ việc nhỏ, đến việc lớn, đều phải xây dựng trên tinh thần Vô Ngã”. Nếu không nói rằng; tổng thể nền đạo lý phật giáo, là học thuyết Vô ngã, Vô thường.

   Hành giả đã liễu đạo thanh tịnh vô ngã  ở pháp môn mình đã chọn, hợp với căn cơ mình rồi, cứ  tiếp tục làm chủ tâm trong lúc hành Đạo. Để cho tâm thêm được an ổn, trong lúc tri hành, là đóng 5 cửa trước lại, lái tâm mình đi trên con đường trung đạo, không thị phi, tranh cãi, nói thầm, dán nhãn đối tượng (dù có nghe âm thanh, có thấy cảnh), không cực đoan phía này, phía kia…Luôn tri hành theo lời chư Phật dạy:”Không làm các việc ác, nguyện làm các việc lành, luôn giữ tâm hồn thanh tịnh”. (Chưa tu học, đi dọc đi ngang. Học Phật rồi thấy đạo, thẳng đường mà đi).

   Làm chủ tâm, có hai nền tảng. Một-Phật tánh vươn lên. Hai-Liễu đạo. Về liễu đạo, như đã được nói trên. Chỉ riêng đề mục Phật tánh vươn lên, rất hiếm thấy. Hiếm chứ không phải là không có. Điều đó được chứng minh qua hai câu chuyện sau đây:

    Con người trên đời này, bất luận chủng tộc, quốc độ nào, một khi Phật tánh vươn lên như hoa sen ra khỏi mặt nước, nở cánh, ươm nhụy, kết hạt. Là lúc tự quây về ba ngôi báu Phật, Pháp,Tăng trong tâm mình ở góc 180 độ. Rồi tự hành Phật đạo ra giữa trường đời, gọi là người bộ hành cô đơn(kinh sống một mình). Có nghĩa là đi giữa biển đời đầy muôn sắc tục lụy thế gian, mà không hề bị nhiễm trần, do làm chủ Bồ Đề tâm mình vốn có, nói như lời Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni:”Ta sanh ra trong đười, lớn lên giữa đời, ta chinh phục đời, không bị đời làm ô nhiễm. Như vậy ta là Phật”.

I--Trên quê hương Việt nam, có một thanh niên giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đã tự mình quây về Phật, Pháp,Tăng trong tâm ở góc 180 độ. Rồi tự mình hành “Phật đạo” ra giữa trường đời đầy hình bóng giặc Pháp trên đất mẹ giữa thế kỷ 19, mà vẫn an nhiên tiến bước ,làm chủ Bồ Đề tâm mình trên đường hành đạo, một mình với cái mõ nhỏ và cuốn kinh Phổ Môn, không bổn sư, không đạo hiệu, không chùa chiền, bổn đạo. Đó là vị Tổ đầu tiên chùa Trà Cú Phan Thiết.

  Theo tiểu sử để lại, vị Tổ đầu tiên tổ đình Trà Cú, tên là Trần Hữu Đức, người Phú Yên, ở tuổi thanh niên thời ấy, tự mình xuất gia, cạo tóc, mặc  áo tràng nâu, với cuốn kinh Phổ Môn chữ Hán và cái mõ nhỏ canh cánh bên mình, là hành trang tu tập ở nương dâu, rừng núi tại quê nhà. Một ngày nọ, Ngài Hữu Đức tự đến ga xe lửa Tuy Hòa, đáp tàu  xuyên Nam. Xuống ga Mường Mán, đi bộ mất mấy ngày mới đến địa phận Phan Thiết. Nơi đây, Ngài gặp quốc lộ 1, rồi đi về hướng tây bắc, gặp xóm Bào Trâm, Ngài rẽ vô rừng, nghỉ lại dưới chân núi Trà Cú vài hôm. Sau đó Ngài leo núi, được đến đỉnh rồi. Ngài vào thiền định, tụng kinh, niệm Phật trong hang đọng ở hướng đông nam của mặt núi, ngày qua ngày.Thỉnh thoảng Ngài ra hang để độ ngọ bằng rong rêu ở con suối cạn và ăn lá cây, uống nước suối. Lâu lắm mới được loài khỉ cúng cho vài trái cây rừng.

  Một ngày nọ, có con Bạch Hổ đến nằm trước hang. Biết có thú dữ đến xin quây về Tam Bảo, Ngài bước ra, Bạch Hổ ngồi dậy với nét mặt hiền lành, đứng yên, được Ngài xoa đầu, là cách làm lễ quy y Tam bảo cho nó.

  Tưởng rằng chỉ có hai thầy trò thôi. Ai ngờ có một thanh niên ở Phan Thiết tên Vĩnh Thọ, nghe  trên núi Trà Cú có vị sư tu trong hang sâu và con bạch hổ tu ngoài hang. Liền lên đó đốn gỗ, để xem có thật vậy, hay không. Được thấy tận mắt có bạch hổ ngồi trước cửa hang , thật là hiền, là hình ảnh chứng minh đang có vị Tăng trong hang, nên chi người thanh niên Vĩnh Thọ ngồi bên con cọp, để chờ gặp vị sư. Chẳng bao lâu, Ngài Hữu Đức từ hang ra, thanh niên Vĩnh Thọ quỳ xuống đãnh lễ, nói lời xin xuất gia, liền sau đó với đạo hiệu bằng tên Vĩnh Thọ của mình, giống như thầy Hữu Đức lấy tên Ngài làm đạo hiệu khi tự xuất gia. Bởi vì Ngài Hữu Đức chỉ gật đầu, tức bằng lòng không lời kinh và cũng không lễ lạc truyền giới nào cho Thầy Thọ cả. Thầy Vĩnh Thọ phát nguyện ở đó, rồi tự cất am nhỏ để tu niệm và cho bạch hổ ở chung. Còn Ngài Hữu Đức vẫn tu trong hang như ngày nào.Thầy Vĩnh Thọ đi tìm những hạt giống ngũ cốc, rồi trồng trọt tại núi gần con suối để độ ngọ cho baThầy trò. Vài năm sau, một ngày nọ, Thầy Hữu Đức báo cho Thầy Vĩnh Thọ biết sẽ viên tịch. Đúng thật, Ngài Hữu Đức đã về cõi Phật. Sau khi chôn cất thầy mình xong, không thấy bạch hổ đâu cả. Thầy Thọ ra ngoài mộ, thấy bạch hổ nằm bên cạnh mộ, với nét mặt buồn thiu. Qua ba ngày bạch hổ chết theo Thầy mình, tổ Hữu Đức.

  Theo lời HT Thích Quảng Thanh, trụ trì chùa Bảo Quang ở quận CAM cho biết: Tổ đình Trà Cú có ba vị Tổ. Tổ thứ nhất là Ngài Trần Hữu Đức. Tổ thứ hai, là Ngài Vĩnh Thọ. Tổ thứ ba là Ngài Hòa Thượng Thích Long Đoàn. Tổ Vĩnh Thọ, là bổn sư của HT Quảng Liên. HT Quảng Liên là bổn sư của HT Chơn Thành ở chùa Liên Hoa, quận CAM- Hoa Kỳ.

    II--Trong thời Phật còn tại thế, có một chàng thanh niên, vóc dáng khôi ngô, tuấn tú, đường đường một đấng trai làng ở phía nam thành Xá Vệ (Savathi) tên là PUKKUSATI. Anh Pukkusati,tự nhiên cạo bỏ râu, tóc, phục sức Cà Sa màu vàng, y hệt hình tướng Thầy Tỳ Kheo Tăng, đệ tử xuất gia của Phật.Từ đó chàng luôn làm chủ Bồ Đề tâm đang hiện hữu trong lòng, không khi nào vơi qua thiền tọa, thiền hành, khất thực.

   Một chiều nọ, sau khi hành đạo xong, Đức Thế Tôn trên dường trở về Tinh Xá, gặp lúc hoàng hôn thay áo tím. Đức Phật bảo Tôn giả A Nan về Tinh Xá trước. Còn Phật ghé vào trại làm đồ gốm, xin ông chủ trại nghỉ lại. Tại đây, ông chủ trại lò gốm đưa Phật vô để nghỉ qua đêm tại căn phòng có hai chỗ nằm của căn nhà nhỏ, mái lộp lá, vách đất. Tại căn phòng, Phật gặp Thầy Pukkusati đã đến trước Phật từ lúc chiều. Cả hai cùng nghỉ nơi căn phòng. Đức Phật và Thầy Pukkusati hai người xa lạ. Do vậy Đức Phật nhìn Thầy Pukkusati, một thanh niên trai trẻ, khôi ngô, tuấn tú. Đức Phật bèn hỏi:”Này ông bạn Tỳ Kheo, vì ai mà anh bỏ gia đình, xuất gia tu hành? Thầy anh là ai? Anh thích giáo lý của ai?

   Thầy Pukkusati thưa: -“Tôi vì nhà tu tên Gautama, dòng họ Sakya đã bỏ gia đình đi xuất gia tu hành, đã tìm ra đạo giải thoát, cho nên tôi đi xuất gia tu hành, giống như nhà tu Gautama. Chính ông ấy là Thầy tôi. Tôi thích giáo lý của ổng lắm!”

--“Ông ấy bây giờ đang ở đâu?”

--“Đang ở phía bắc thành Savathi.”

--“Anh gặp ông ấy lần nào chưa? Nếu gặp, anh có nhìn ra ổng không?”

--“Tôi chưa từng gặp ông ấy. Nếu gặp, chắc chắn tôi không nhìn ra được.”

Phật không xưng tên mình, mặc dù biết chàng thanh niên ấy vì mình mà đi xuất gia. Phật liền nói:”Anh có bằng lòng nghe giáo lý của tôi không?”.

--“Bằng lòng lắm chứ! Bạn cứ nói đi, tôi sẵn sàng nghe.”

  Phật liền đem giáo lý Ngài ra giảng.

Sau khi nghe xong, Thầy Tỳ Kheo Pukkusati nhận ra liền: Người mặc áo Casa đứng trước mặt, nói giáo lý vừa xong, chính là Phật, chứ không ai xa lạ !Thầy liền quỳ xuống, trật vai áo bên phải, chấp tay đãnh lễ Đức Thế Tôn. Sáng ra, Đức Phật đưa Thầy Pukkusati, cùng đi với Phật về Tinh Xá Kỳ Hoàn tại thành Xá Vệ, nhập vào Tăng đoàn của Phật.( Phỏng theo chủ đề ngắn”Cần gì mang nhãn hiệu Phật mới là Phật”…Khi chàng Pukkusati...(Phật Học Tinh Hoa-Thu Giang Nguyễn Duy Cần-trang 66). Người viết giảng rộng ra ở đề “Làm Chủ Tâm Mình” do Phật tánh vươn lên, là cách làm chủ Tâm siêu việt nhất.)

 

ĐỨC HẠNH

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2018(Xem: 8941)
Một vị cư sĩ hỏi vị Sư: - Bạch Thầy cho con hỏi vì sao có người tu thì an lạc, có người tu lại chẳng an lạc? Vị Sư không đáp mà thủng thẳng hỏi: Chẳng hay tâm của Đạo hữu đang an hay chẳng an? Cư sĩ: Bạch thầy tâm con vừa an, vừa bất an. Vị Sư: Cho tôi hỏi đôi điều, Đạo hữu nghĩ sao cứ thẳng thắn mà đáp. Khi nào Đạo hữu thấy an?
28/07/2018(Xem: 5960)
CHÙA NHỎ MIỀN QUÊ Tôi đứng lặng im trước bức thư pháp đề thơ lộng khung kính treo trên vách của ngôi điện im ắng. Thư pháp của chính Thầy trú trì. Thi phẩm bất hủ của Trương Kế, đã được truyền tụng nhiều đời, đưa tiếng chuông của một ngôi chùa ngân vọng giữa thinh không, rung động xuyên suốt cả không gian và thời gian, khiến cho nhân tâm đang lăng xăng phóng túng phải quay về với thinh thinh lắng đọng.
28/07/2018(Xem: 9057)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 7194)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10523)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7739)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8556)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 6029)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6710)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 9005)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]