Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ai là những người nổi tiếng

26/03/201707:21(Xem: 7116)
Ai là những người nổi tiếng


lotus_4


AI LÀ NHỮNG NGƯỜI NỔI TIẾNG?

 

Hôm nay chúng ta sẽ học về những tấm gương sáng đã đóng góp cho nhân loại của một thời đã qua. Đã làm người dù ít hay nhiều ai cũng đã từng có một quá khứ tốt và xấu.

 

Lịch sử nhân loại lúc nào cũng có hai mặt tương phản nhau giữa tốt và xấu, là trường đời luôn phải đấu tranh và xây dựng để không ngừng tiến bộ. Tuy nhiên trong cuộc sinh tồn có kẻ được người mất, có kẻ thắng người thua, nên hư hay thành bại đều do con người tạo lấy; mình làm lành được hưởng phước mình làm ác chịu khổ đau. Quy luật sinh tồn luôn phải đánh đổi để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Chuyện xưa kể rằng, tại một trường trung học ở Mỹ, có một lớp học nọ với 26 em học sinh cá biệt có nhiều khiếm khuyết và lỗi lầm. Đây là một lớp học đặc biệt dành riêng cho các em học sinh có tiểu sử không được tốt đẹp? Có em đã từng hút chích xì ke ma túy, có em từng vào trại cải tạo nhiều lần, thậm chí có một học sinh nữ đã từng phá thai tới 3 lần trong một năm.

Gia đình của các đứa trẻ đó đều chán nản và đã không chấp nhận chúng, thế cho nên mọi người trong gia đình người thân đều xa lánh chúng. Tưởng chừng cuộc sống của họ như đã hết hy vọng thì một ngày kia, cô giáo Phila mới về trường đã tình nguyện làm chủ nhiệm lớp của những đứa trẻ hư hỏng này.

Bắt đầu một ngày mới, cô giáo Phila chính thức lên bục giảng với dóc dáng thon gọn, mặc một chiếc đầm lụa màu xanh lá cây, mái tóc màu nâu cắt ngắn hình búp bê làm tăng thêm vẻ đẹp kiều diễm và trong sáng. Bọn trẻ đang nhìn cô với một thái độ khác thường giống như các thầy cô giáo khác, tuy nhiên cô giáo Phila đã thể hiện cung cách của một người tràn đầy tình thương… Sau khi giới thiệu về mình xong, cô dịu dàng nhìn lướt qua từng khuôn mặt của bọn trẻ một lượt rồi nói như sau:

Hôm nay cô sẽ kể cho các em nghe về quá khứ của 3 người đàn ông đã từng nổi tiếng một thời đã qua và có những quá khứ đau buồn:

-Người thứ nhất đã từng có những vụ bê bối về chính trị, rất mê tín vào y thuật của thầy cúng, ông ta từng có tới 2 tình nhân, hút thuốc nhiều hơn những người khác và mỗi ngày uống từ 8 đến10 ly rượu mạnh.

-Người thứ hai đã bị đuổi việc đến 2 lần do tính cẩu thả và lười biếng, ông ta có thói quen ngủ tới trưa mới dậy và tối nào cũng uống 1 lít rượu brandy. Và đã từng hút thuốc phiện khi còn là sinh viên học sinh…

-Người thứ ba là vị anh hùng nổi tiếng trong thời kỳ chiến tranh của thế giới. Ông ta ăn chay trường, không bao giờ hút thuốc lá và thỉnh thoảng mới uống rượu, tuy có uống bia nhưng không nhiều. Thời thanh niên ông ta sống rất gương mẫu và đạo đức, không tình ái lăng nhăng rất nghiêm khắc với bản thân.

Sau khi kể xong cô hỏi cả lớp, trong 3 người, ai sau này sẽ có nhiều cống hiến lớn lao nhất cho nhân loại?

Khỏi cần phải suy xét hay bàn cãi gì cả, cả lớp đều lên tiếng chọn người thứ ba, nhưng cô giáo Phila trả lời rằng các em đã đoán sai hết rồi, làm cho lũ trẻ ngạc nhiên đến lạ thường.

Im lặng một hồi lâu để đánh tan mọi nghi ngờ, cô giáo nói trong nhẹ nhàng như có gì sâu lắng: Cô biết chắc là các em sẽ chọn người thứ 3! Vì sao? Vì ông ta hơn hẳn hai người kia về mọi mặt nhưng sự thật lại không như vậy… Ba người này đều là những người nổi tiếng nhất trong thế chiến thứ 2.

 

-Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy bị bệnh bại liệt từ thắt lưng trở xuống, nhưng nhờ ý chí kiên cường và mạnh mẽ với sự luyện tập không ngừng nghỉ, cuối cùng ông đã chiến thắng cơn bệnh hiểm nghèo này. Ông ta đã từng thành công và nổi tiếng vượt ngoài tiêu chuẩn cho phép, ông làm Tổng thống Mỹ trong bốn nhiệm kỳ liên tiếp.

 

-Người thứ hai là Winston Churchill, Ông là Thủ tướng Anh duy nhất nhận giải Nobel Văn học và là người đầu tiên được công nhận là công dân danh dự Hoa Kỳ. Ông là vị Thủ tướng nổi tiếng và tài ba nhất trong lịch sử nước Anh.

 

-Còn người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ đội lớp người, là tiền thân của phát xít Đức. Khi ông ta nắm quyền đã giết hại trên hàng chục triệu người dân vô tội.


Khi nghe đến đây, cả lớp đều đồng thanh ồ lên một tiếng vì sự thật quá phũ phàng, không đúng như dự đoán của chúng. Cả lũ như ngây người ra và dường như không thể tin nổi vào những gì chúng vừa nghe thấy.

 

Cô giáo nói đây là câu chuyện có thật trong lịch sử nhân loại, những điều mà cô vừa kể cho các em nghe là quá khứ của họ, quá khứ thì có tốt và xấu. Còn sự nghiệp hiện tại của họ sau này mới là điều chúng ta cần quan tâm, đó là sự cống hiến và dấn thân nhiều cho nhân loại.

 

Này các em, cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay được bắt đầu bằng một ngày mới có ý nghĩa nhất. Thành công hay thất bại trong quá khứ đó là chuyện đã qua, còn hiện tại mới thật sự là những giây phút chứng minh bản thân mình sẽ cố hiến gì cho nhân loại? Chúng ta hãy bước ra từ bóng tối của quá khứ để đi đến ánh sáng của hiện tại, bắt đầu hôm nay các em nguyện làm mới mà các em sẽ làm và cô tin chắc chắn các em sẽ trở thành những người có ích cho nhân loại…

 

Đây là bài học của cuộc đời, sau này trong chúng ta sẽ trở thành những người thành đạt trong cuộc sống. Có người trở thành nhà  giáo dục đạo đức, có người trở thành luật sư giỏi để đem lại công bằng cho người cô thế, có người lại trở thành các nhà khoa học vĩ đại. Và trong số đó, đặc biệt phải nói đến Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, nay đã trở thành Giám đốc tài chính của phố Wall.

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, triều đại nhà Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm, cũng như chính sách hộ quốc an dân, khuyên mọi người giữ năm giới và tu mười điều lành, nhờ vậy đất nước phát triển vô cùng tốt đẹp. 

Năm 1299, vua Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau này vua đổi hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà ngày nay mọi người thường tôn xưng là Phật hoàng Trần Nhân Tông và là người chính thức sáng lập thiền phái Trúc Lâm.

Từ đó trở đi, thiền phái trúc lâm Yên Tử trở thành nổi tiếng, thế lực lan rộng khắp mọi nơi. Một ông vua đã từng dẫn dắt muôn dân đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Nguyên, để đem lại hòa bình và thịnh trị cho dân tộc Việt Nam.

Trúc Lâm tuy học hỏi và nhận được yếu chỉ thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ thờ ngài làm thầy, nhưng giữ giới luật nghiêm minh.

Ngài được tôn danh là Phật hoàng Trần Nhân Tông, Ngài là vị Tổ đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền thuần túy của Phật giáo Việt Nam.

Một nét đặc sắc nổi bật của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đó là thái độ khoan dung của Ngài đối với một số quan lại đã viết biểu dâng cho nhà Nguyên xin đầu hàng. Đức vua đã không truy cứu trách nhiệm xử tội họ mà ra lệnh đốt bỏ các tờ biểu đó. Tấm lòng khoan dung độ lượng và sẵn sàng tha thứ của nhà vua quả là hiếm có, đã cảm hóa được họ tâm phục, khẩu phục.

Mười bốn năm trên ngôi vua, năm năm trên ngôi Thái thượng hoàng, Phật hoàng Trần Nhân Tông luôn là vị minh quân có một không hai trong lịch sử nước ta. Ngài đã biết đem giáo lý Phật-đà áp dụng cho toàn dân, nhờ vậy mọi người sống ấm no hạnh phúc và thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, không thấy ai là kẻ thù.

Khi còn là hoàng thái tử, Ngài đã hấp thụ được tinh ba của thiền do Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy nên đã trường trai và muốn ít biết đủ để sống đời đạo hạnh. Và đến khi làm vua, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh tu hành và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Mặc dù phải giải quyết rất nhiều bộn bề công việc của đất nước, nhưng Ngài vẫn giữ vững ý chí lập trường để tu hành.

Sau khi hoàn thành trách nhiệm của một vị minh quân đối với giang sơn xã tắc, năm 1299 Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, để xuất gia tu hành trên núi Yên Tử. Điều này gợi cho chúng ta cảm nhận rằng Phật hoàng Trần Nhân Tông là Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân làm vua ở Việt Nam để cứu giúp nhân dân ta thoát khỏi khổ nạn của giặc ngoại xâm thời đó.

Chính vì vậy, đối với Phật giáo Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời là một nét son vàng sáng chói đem lại bình yên hạnh phúc cho toàn dân.

Hòa Thượng Thanh Từ ngày hôm nay đã có công rất lớn là khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm, đây là bước ngoặc quan trọng đang giúp mọi người trong cả nước, quy hướng về Phật giáo gầy dựng con người sống làm việc theo tinh thần từ bi hỷ xả mà cùng nhau phát triển một đất nước văn minh, giàu mạnh về vật chất lẫn tinh thần bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.

Đọc lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, chúng ta có thể hãnh diện vì Ngài là một vị Thái tử chuẩn bị lên ngôi vua, lại dám bỏ ngai vàng để đi tu, điều này rất hiếm có trong lịch sử nhân loại. Người khai sáng ra đạo Phật của chúng ta là người sắp hưởng địa vị cao tột nhất thế gian mà Ngài vẫn không màng đến, ra đi tìm đạo để giác ngộ cho mình và tất cả chúng sinh. Ngày hôm nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng khắp thế giới là một dấu ấn quan trọng để mọi người biết cách chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta càng hãnh diện hơn nữa, ở Việt Nam một ông vua đi tu. Đang làm vua đủ uy quyền thế lực muốn gì được nấy, hưởng thụ đầy đủ các dục lạc thế gian, vậy mà vua Trần Nhân Tông lại đem tất cả sự nghiệp giao cho con để đi tu. Tư cách xuất gia của Ngài là một điểm son sáng chói, khiến chúng ta càng tự hào hãnh diện hơn nữa.

Đức Phật là một Thái tử đi tu, ông Tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm thuần chất Việt Nam của mình là một ông vua đi tu, còn chúng ta là những thành phần nào trong xã hội? So với đức Phật và Sơ tổ Trúc Lâm, các Ngài ở trong hoàn cảnh cao sang quyền quý mà vẫn dứt ra được để thành tựu viên mãn. Những việc rất khó làm mà các Ngài đã làm được, thì ngày nay chúng ta là những kẻ hậu học phải tâm quyết nhiều hơn nữa trong việc tu hành của mình bằng cách giữ giới, thiền định, bố thí và dùng trí tuệ để soi sáng phiền não nhiễm ô tan hòa vào chân tâm hay phật tính sáng suốt của mình.

Như vậy về mặt lịch sử, chúng ta hãnh diện thấy Phật Tổ cũng là một con người như tất cả mọi người, nhờ quyết chí kiên trì bền bỉ trong việc tu hành nhờ thấy được hạnh phúc thế gian chỉ là tạm bợ không dài lâu bởi sự vô thường đổi thay của nó. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tin chắc rằng nếu quyết chí tu hành, cố gắng buông xả không chấp trước vào ta, người, chúng sinh hay thân tâm hoàn cảnh là thật, thì sẽ đạt được kết quả tốt đẹp….

Chúng tôi đã đọc câu chuyện này trong một duyên rất tình cờ, nay viết lại để chúng ta cùng suy gẫm? Mỗi sáng thức dậy, ta có một ngày mới để yêu thương, ai có nổ lực chuyên cần và có quyết tâm cao độ thì sẽ vượt qua mọi sóng gió cuộc đời. Chúng ta đang thở và biết mình đang sống, tuy nhiên vượt cạn lên bờ được mấy ai? Vì dòng đời lúc nào cũng muốn nhấn chìm dù đó là nhân nghĩa của một con người. Chúng ta có quyền hy vọng, có quyền vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời, bởi vì ngày hôm qua là quá khứ, ngài mai thì chưa đến, hôm nay là hiện tại với những món quà có ý nghĩa.

Chúng ta hãy bỏ lại quá khứ tốt và xấu, bởi nó chỉ là dĩ vãng của những gì đã qua, tương lai còn xa tít ở chân trời góc biển ta khó tìm đến, hiện tại với những việc làm ích nước lợi nhà, đó mới là điều quan trọng nhất trong cuộc đời mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2014(Xem: 6572)
Đêm hôm đó là một đêm trời mưa. Mưa dai ẳng như tình quê xứ Huế, nhưng không phải Huế. Mưa đang rơi trong trời đêm Thụy Sĩ. Càng về khuya, mưa rơi càng nặng hạt. Vạn vật im lìm đứng lặng trong đêm. Thời gian nhẹ trôi. Không gian yên vắng. Tất cả đang chìm vào tĩnh mịch giữa đêm khuya. Mọi nhà hàng xóm đều tắt đèn yên nghỉ. Không còn một tiếng động dù nhỏ nào, ngoài tiếng mưa rơi rả rích lẫn với tiếng tâm tình rù rì của anh em Gia Đình Phật Tử Trí Thủ chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trên căn gác xếp nhà anh Khá.
31/10/2014(Xem: 7044)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 8140)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 7891)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7327)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7701)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9236)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14412)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8328)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 12974)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]