Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phiền não và bệnh tật - Phan Minh Đức

06/07/201519:24(Xem: 9504)
Phiền não và bệnh tật - Phan Minh Đức
Phiền não và bệnh tật
Phan Minh Đức

thumbnail.php?file=035___SK___Phien_Nao_Va_Benh_Tat__R__1_200646710Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần. Giữa thân và tâm có sự tác động, ảnh hưởng qua lại với nhau.

Khoảng 5.000 năm trước, sách Hoàng Đế Nội kinh, tác phẩm nổi tiếng của nền y học cổ đại Trung Quốc đã từng đề cập đến 7 loại tình chí (thất tình) là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh lý, đặt vấn đề tu dưỡng tinh thần lên vị trí hàng đầu trong phép dưỡng sinh và phòng trị bệnh. Ngành Tâm lý học và Bệnh học hiện đại cũng cho biết các trạng thái tinh thần gồm có hai loại là tích cực và tiêu cực. Vui mừng, hoan hỷ, thương yêu, lạc quan, tin tưởng… là những trạng thái tinh thần tích cực có lợi cho sức khỏe. Buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, giận hờn, bất mãn, ghen ghét, đố kỵ, bi quan, chán nản… là những trạng thái tinh thần tiêu cực có hại cho sức khỏe, gây ra nhiều bệnh tật.

Tuy nhiên, dù là trạng thái tinh thần tích cực hay tiêu cực, nếu xuất hiện một cách đột ngột và thái quá cũng đều có tác hại. Điều này không khác với lý luận Đông y, y lý Đông phương cho rằng: Mừng vui quá làm tổn hại tim (hỷ thương tâm), giận quá làm tổn hại gan (nộ thương can), buồn quá làm tổn hại phổi (bi thương phế), lo nghĩ nhiều quá làm tổn hại lá lách (tư thương tỳ), sợ quá làm tổn hại thận (khủng thương thận), kinh hoàng, kinh hãi làm tổn hại dạ dày (kinh thương vị) (Hoàng Đế Nội kinh). Y Tổ Hải Thượng Lãn Ông cũng nói: “Nội thương bệnh chứng phát sinh, thường do xúc động thất tình gây nên. Mặc dù đạo dẫn, tiên đơn, đâu bằng hai chữ “thanh tâm” nằm lòng”. (Vệ sinh yếu quyết).

Theo Bác sĩ J.A. Schindler người Mỹ cho biết trong quyển “Sống thế nào trong 365 ngày của một năm” (kỹ sư Đỗ Văn Thức và bác sĩ Đàm Trung Dương biên dịch, Nhà xuất bản Long An - 1991) có đến trên 50% bệnh nhân mắc bệnh có nguyên nhân từ stress (tình trạng căng thẳng, rối loạn tâm lý). Nhiều nghiên cứu cho biết stress gây ra một số triệu chứng như: Mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ, dễ bực bội cáu gắt, đau gáy, kém ăn, rối loạn tiêu hóa, về lâu dài có thể dẫn đến các bệnh lý như viêm xoang, viêm loét dạ dày, các bệnh hệ thần kinh, tim mạch v.v... Các nghiên cứu khoa học thấy rằng khi tâm lý ở trạng thái căng thẳng, lo lắng, buồn bực hoặc tinh thần rối lọan thì hoạt động sinh lý bị xáo trộn và trương lực cơ bắp cũng tăng theo, lúc này khả năng phòng chống bệnh tật (sức đề kháng, miễn dịch) của cơ thể cũng bị suy giảm, mầm bệnh có điều kiện phát triển và các bệnh mãn tính thêm trầm trọng. Khi buồn bã, lo lắng, căng thẳng thì ăn không thấy ngon, ngủ không yên, giấc ngủ không sâu, tiêu hóa kém, thường bị tình trạng đầy hơi chướng bụng. Khi nổi nóng, tức giận, cơ thể tăng tiết adrenalin làm tăng nhịp tim và tăng huyết áp, hô hấp không điều hòa, động mạch vành ở tim co thắt đột ngột, dễ dẫn đến nhồi máu cơ tim… Những người thường hay giận dữ cũng dễ bị suy giảm chức năng của phổi. Sự tức giận có thể làm trầm trọng thêm tình trạng phổi tắc nghẽn mãn tính, gây suy hô hấp nặng.

Các chuyên gia y tế Hoa Kỳ cho biết: 70% người bệnh chỉ cần trút bỏ nỗi sợ hãi, lo buồn thì có khả năng khỏi bệnh. Tiến hành nghiên cứu trên 15.000 người bị đau dạ dày, cứ 5 người thì có 4 người bị đau dạ dày do nguyên nhân tâm lý: Lo buồn, sợ hãi, thù hận, giận hờn, cực đoan, ích kỷ. Nghiên cứu 176 doanh nhân chết ở tuổi bình quân 44,3 tuổi, thì hơn 1/3 vì stress trầm trọng mà bị các chứng bệnh về thần kinh, tim mạch, tiêu hóa và cao huyết áp.

Trong Vệ sinh yếu quyết, Hải Thượng Lãn Ông có viết:

“Nội thương bệnh chứng phát sinh

Thường do xúc động thất tình gây nên.

…Lợi dục đầu mối thất tình

Chặn lòng ham muốn thì mình được an.

Cần nên tiết dục, thanh tâm

Giữ lòng liêm chính (trong sạch, ngay thẳng) chẳng tham tiền tài.

Chẳng vì danh vị đua đòi

Chẳng vì sắc đẹp đắm người hại thân

Giữ tinh (tiết dục), dưỡng khí, tồn thần

Tinh không hao tán thì thần được yên”.

(Thất tình: 7 tình chí, 7 loại tình cảm, cảm xúc: Hỷ (mừng), nộ (giận), ưu (lo), tư (nghĩ ngợi), bi (buồn), khủng (sợ), kinh (kinh hãi), có thể rút lại thành 5 là: Mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ).

Đoạn Yếu quyết diễn ca nói trên được Hải Thượng Lãn Ông khai triển từ ý hai câu thơ dạy về phép tu dưỡng thân tâm của danh y thiền sư Tuệ Tĩnh: “Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần; Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”. Có thể tạm dịch là: Giữ tinh (tiết chế tình dục); Dưỡng khí; Dảo tồn thần (không để tinh thần hao tán); Giữ cho lòng thanh thản; Hạn chế ham muốn, dục vọng; Giữ gìn điều thiện, sống với lẽ phải; Rèn luyện thân thể.

Thất tình (hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh), lục dục (danh vị, tài lợi, sắc dục, tư vị, hư vọng, tật đố), nói tóm lại các phiền não là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh lý mà chỉ có liệu pháp tâm lý, sự tu tập, rèn luyện, chuyển hóa nội tâm mới giúp vượt qua. Trong Phật giáo thường đề cập đến 10 loại phiền não vốn là đầu mối dẫn đến các hình thái tâm lý tiêu cực hay lục dục, thất tình. Mười phiền não đó là:

1. Tham: Tham lam, ham muốn của cải, tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, địa vị, ăn uống hưởng thụ, ngủ nghỉ, gọi chung là ngũ dục; Hay nói sâu xa hơn là tham muốn sắc (hình tướng, màu sắc), thinh (âm thanh), hương (các mùi), vị (các vị), xúc (sự tiếp xúc, va chạm), pháp (các sự vật, hiện tượng nói chung).

2. Sân: Sân hận, nóng giận, giận hờn.

3. Si: Si mê, vô minh, không sáng suốt, nhận thức tiêu cực, không có chánh kiến, chánh tư duy.

4. Mạn: Có hai loại: 1. Tự cao tự đại, kiêu căng ngạo mạn, đây gọi là tự tôn. 2. Tự cho mình thấp kém, khởi tâm niệm buồn tủi, bất cần đời, bi quan, chán nản, đây gọi là tự ti.

5. Nghi: Nghi ngờ, không có lòng tin: Nghi ngờ bản thân, nghi ngờ người khác, nghi ngờ chân lý, sự thật, nghi ngờ phương pháp, pháp môn…

6. Thân kiến: Chấp thân ngũ uẩn là mình, sinh tâm tham ái, vì tham ái mà sinh ra lo lắng, sợ hãi, ưu phiền, sân hận; Vì tham ái mà tạo nghiệp.

7. Biên kiến: Thấy một bên, thấy biết khiếm khuyết, nhận thức lệch lạc, không đầy đủ, toàn diện.

8. Kiến thủ: Chấp chặt nhận thức, hiểu biết của mình, luôn cho mình là đúng, không chịu thay đổi cách nhìn, cách nghĩ (do không thông hiểu hoặc vì lòng tự ái).

9. Giới cấm thủ: Cố chấp bảo thủ những nguyên tắc, nề nếp, quy củ, điều lệ, thói quen một cách cực đoan, hoặc trì giữ những giới cấm lập dị không có ích cho mình cho người, hoặc chấp giới một cách sai lầm, cực đoan, không có hiểu biết đúng đắn về giới pháp.

10. Tà kiến: Thấy biết không chơn chánh, mê tín dị đoan, tin tưởng sai lầm, nhận thức không đúng chân lý, sự thật, trái với nhân quả, quy luật tự nhiên, đời sống tinh thần, đời sống tâm linh lệch lạc.

10. Phiền não trên chẳng những khiến con người bất an, khổ não, bệnh tật, mà còn dẫn dắt con người tạo nghiệp sinh tử luân hồi từ đời này sang đời khác. Để đối trị 10 phiền não này, Đức Phật đã chế ra nhiều phương thuốc, đó là các pháp môn, ví dụ như: Nhẫn nhục, Tứ vô lượng tâm điều trị tâm sân; Thiểu dục, tri túc, bố thí điều trị tâm tham; Chánh kiến, chánh tư duy, thiền định, trí tuệ điều trị tâm si v.v... Tất cả các pháp môn đều hướng đến mục đích tiêu trừ phiền não bệnh, giúp chúng sinh ly khổ đắc lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16035)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6095)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6291)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3989)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8326)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15608)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10836)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7925)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]