Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người đi làm công quả được gì? - Giác Hạnh Hoa

31/03/201218:45(Xem: 7918)
Người đi làm công quả được gì? - Giác Hạnh Hoa
Người đi làm công quả được gì?
Giác Hạnh Hoa

thumbnail.php?file=017___PG_XH___Lam_Cong_Qua_Duoc_Gi__R_a_1_175259958Có lẽ không một nhà ăn nào ở đất nước Việt Nam lại phục vụ “đắt hàng” như nhà bếp của chùa Hoằng Pháp trong những ngày tu Phật thất, khóa tu mùa Hè, đặc biệt là khóa tu một ngày tại chùa này.

Để phục vụ bữa ăn sáng và trưa cho khoảng từ ba ngàn đến tám ngàn người ăn thì quả thật là điều khó có thể tin được, nếu bạn không tận mắt chứng kiến, tận tay mình làm. Mặc dù chỉ là đồ chay nhưng khối lượng công việc thì quả thật khổng lồ. Ngoài các Sư Thầy còn có khoảng vài chục người làm công quả ở tại chùa phải dậy từ ba giờ sáng, có khoảng vài chục người thay vì ngồi trên chùa nghe giảng pháp thì họ đã tình nguyện xuống bếp để phục vụ.

Bữa sáng thì ăn đơn giản, chỉ là tô mì, có khi là ổ bánh mì kẹp nhân chay. Đơn giản vậy đó nhưng để thu dọn và rửa tô, đũa muỗng cho bữa sáng cũng phải cả trăm người phục vụ. Bữa trưa chỉ là cơm chay đơn giản nhưng cũng phải có đủ đến bốn, năm món ăn. Nồi để nấu cơm cho bữa trưa là những thùng Inox đường kính 1m, cao hết khổ 1,2mét là 20 thùng, kèm theo khoảng 15-20 khay cơm có đường kính 1,2mét cao 0,1 mét nữa. Rau, đậu thì có lẽ phải trên 100 rổ, toàn những rổ lớn đến trên 0,5m. Chậu để đựng đồ ăn lớn nhất thì cũng phải trên 0,7 m khoảng trên 50 chậu. Nồi, xoong, chảo, chén, tô, đũa, muỗng thì ôi thôi không thể nào mà đếm cho xuể, đó là 70% cơm và thức ăn được bới vào hộp rồi đó.

Vậy mà mọi việc vẫn diễn ra tốt đẹp, vẫn đâu vào đấy, chu đáo, tận tình, ngon miệng, sạch sẽ, gọn gàng, an toàn, chưa một ai ăn xong bữa trưa ở đây trong suốt bao năm qua mà bị ngộ độc bao giờ.

Một điều rất đặc biệt là không thấy có ai chỉ huy, tuyệt nhiên không có người phân công, vậy mà hơn trăm người vẫn làm việc miệt mài, không ngơi tay, không ai đùn đẩy việc cho ai, ai cũng làm việc với trách nhiệm cao nhất. Người làm công quả ở đây có nam, nữ, trẻ em tám chín tuổi, người già bảy, tám mươi tuổi (người già thì ngồi sắp từng đôi đũa ra ống, xếp gọn loại nào ra loại đó, tô, chén, muỗng ra từng ô, từng rổ, trẻ ăn xong thì phụ cùng người lớn nhặt, dồn cơm thừa lại, các vỏ hộp xếp gọn lại cho vào thùng rác).

Ai cũng làm việc trong im lặng, ai cũng vừa làm vừa nghe pháp hay khi đến lúc niệm Phật mọi người cũng lẩm bẩm niệm theo ( hệ thống truyền thanh ở đây rất tốt).

Có người đi làm công quả ở chùa nhiều năm, có người thì là mới toanh. Điều thú vị là có rất nhiều nam, nữ thanh niên thay vì ngồi trên chùa nghe pháp thì họ lại xuống phụ công việc cho nhà bếp.

Công việc nặng nhọc nhất ngoài các Sư Thầy và một số Phật tử đứng trực tiếp nấu trong điều kiện nóng bức, khói, lửa( ngoài gas, điện, có cả đun bằng củi) các thầy phải đứng bếp suốt từ ba giờ sáng đến mười giờ, cả người các thầy ướt đầm mồ hôi. Có thầy thì vác cả những thùng to rất nặng. Thứ nữa là những người làm công việc rửa nồi, xoong, chảo… nhiều người quần áo ướt nhèm. Vậy mà không thấy ai tỏ vẻ mệt nhọc, không một tiếng than mệt.

Mỗi lần đi lao động ở chùa về, ai cũng bảo là khi làm thì không thấy mệt, nhưng khi về đến nhà mới thấy toàn thân rã rời, hai bàn tay thì nhăn và nhợt nhạt do phải tiếp xúc và ngâm lâu trong dầu rửa chén hay thâm đen lại do nhặt rau, cọ nồi (dù có bao tay nhưng cũng không tránh khỏi) các móng tay đẹp đẽ cũng gãy tiêu luôn, sáng ra đến chỗ làm gõ trên bàn phím, các ngón tay vẫn còn đau nhức, nhưng được cái tối đó ngủ ngon lắm.

Người đi lao động ở chùa (theo nhà chùa gọi là làm công quả) nhưng không có lương, tất cả là tự nguyện, không có ai ép buộc. Có người làm vì ý nghĩ muốn đóng góp sức nhỏ bé của mình cho khóa tu được an lạc. Những người là Phật tử thì không vì lý do nào cả, chỉ mong muốn có sức khỏe để được phục vụ mãi. Có người thì cho rằng mình đã có quá nhiều phương tiện và điều kiện truyền thông hiện nay để nghe pháp bất cứ lúc nào, vì vậy mình đi phụ việc nhà bếp để dành cho người khác được thảnh thơi ngồi nghe pháp nhưng có người đi chùa làm công quả là để tu cho chính mình.

Thật vậy:

Bởi vì khi đã làm công quả thì không nhất thiết phải đúng chuyên môn, bằng cấp đã học nhất là những công việc phục vụ nhà bếp, dọn vệ sinh trong chùa thì lại càng không. Đâu có cần phải chức danh, chuyên môn gì mới làm được. Tâm lý chung của nhiều người cho rằng mình là doanh nhân, quan chức, kỹ sư, bác sĩ, người nhà giàu, người nổi tiếng, người của công chúng… sao lại đi làm những việc lặt vặt, thấp kém này. Việc này cần thì mình hô một tiếng hay bỏ ra ít tiền là mọi việc sẽ có người làm xong hết.

Có người nổi tiếng lại quan niệm rằng một giờ đồng hồ của mình bỏ ra có thể thu tiền về hàng triệu thì tại sao lại đi làm vài tiếng công quả ở chùa, thay vì phải trực tiếp làm thì mang tiền triệu ra làm công quả tốt hơn, kinh tế hơn, hiệu quả hơn gấp bao nhiêu lần. Suy nghĩ đó đúng, không có gì sai cả nếu tính về hiệu quả kinh tế, hơn nữa lại được tiếng tăm càng nổi hơn. Còn khi làm lao động những việc vặt ở chùa thì đâu có ai biết đến. Nếu đề làm một cuộc trưng cầu thì có thể tới 95% chọn cách làm công quả của những người có chức danh trong xã hội đều sẽ chọn cách làm bằng dùng tiền hay sai bảo người khác làm… mà không chọn cách đích thân mình làm.

Nhưng đúng là chỉ đến khi đích thân mình làm công quả tại chùa mình mới là người đang tập tu. Bởi vì khi đó trước hết trong đầu mình không còn tính toán một giờ làm sẽ được bao nhiêu tiền, cũng không có ai cung kính thưa gửi, không ra lệnh cho ai, không có ai để sai bảo, không hạch sách ai được, không mặt đỏ, trợn mắt quát tháo ai, cũng không ai nịnh bợ mình, không ai đưa rước, không ai biết đến mình là ai, không có ai biếu bổng lộc, mà cũng không có gì để tham ô, không có ai nâng ly ca tụng, bữa ăn cũng không có sơn hào, hải vị…

Lần đầu tiên đi làm công quả thì rất lấy làm khó chịu, không ra lệnh được cho ai, thỉnh thoảng còn có người nhờ giúp (cũng rất ít thôi). Nhưng mỗi tháng một buổi đi làm công quả qua đi là mỗi lần trong tâm thay đổi: Từ cao ngạo, hạch hỏi, ra lệnh, hò hét, quát tháo hay bắt người khác phải cung phụng, quan tâm, và luôn cho là nhân vật quan trọng, không bao giờ biết xin lỗi cấp dưới khi làm sai… trở nên trân trọng mọi người, cảm thông, chia sẻ, bình tâm, dịu dàng, nhẫn nại; Tính nhỏ nhen, ích kỷ cũng dần biến mất, cái tôi không còn ngự trị trong tâm… và vui vẻ ăn cả thức ăn dồn của người ăn trước còn lại một cách ngon lành (thường người phục vụ trong nhà bếp hay ăn sau cùng)…

Cái được của người đi làm công quả là thế đấy. Nhưng cũng rất tiếc những quan chức, những doanh nhân, những người nổi tiếng… đi làm công quả trực tiếp còn quá ít ỏi. Chúng ta hãy trải nghiệm thử mà xem rất thú vị và kỳ diệu đấy.

Giá như những người thành danh trong xã hội và tất cả những thanh thiếu niên, trong đời có ít nhất một lần đi làm công quả thì chắc chắn rằng xã hội này sẽ vơi bớt những chuyện đau lòng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2021(Xem: 6546)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5947)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12950)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5759)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5530)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5744)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4786)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4789)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 5018)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4882)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]